Cuốn tiểu thuyết mang màu sắc ngụ ngôn và cổ tích tuyệt diệu của Michael Ende đã thành công trên khắp thế giới, trở thành thánh thư của cả một thế hệ.
Momo sống ở rìa một thành phố lớn trong một nhà hát lộ thiên đổ nát. Cô bé không có gì ngoài những thứ tự mình tìm được hay mọi người tặng cho, và một khả năng kì lạ: Cô bé luôn có thời gian và khả năng lắng nghe người khác. Một ngày kia, những gã màu xám bắt tay vào thực hiện một kế hoạch. Chúng cầm giữ thời gian quý báu của con người và Momo là người duy nhất còn có thể ngăn chặn được chúng…
Có một bí mật to lớn nhưng cũng hết sức giản dị. Tất cả mọi người đều có phần, ai cũng biết đến nó, nhưng lại rất ít người suy nghĩ về nó. Hầu hết mọi người chỉ đơn giản nhận lấy nó và chẳng ngạc nhiên một chút nào. Điều bí mật ấy là thời gian. Thời gian là cuộc sống. Và cuộc sống ở trong trái tim…
Là câu chuyện nổi tiếng của Michael Ende trước Chuyện dài bất tận, Momo đã mang về cho tác giả của nó vô số giải thưởng văn học thanh thiếu niên của Đức và châu Âu, nhiều lần dựng thành phim, được dịch ra hơn 40 thứ tiếng với tổng số ấn bản lên tới bảy triệu.
Nhận định
"Tiểu thuyết của Michael Ende còn hơn cả một thánh thư." – Stuttgarter Zeitung (Báo Người Stuttgart)
"Một truyện cổ tích dành cho trẻ em cũng như người lớn." – Die Welt (Thế giới)
***
Michael Ende, tác giả của Chuyện Dài Bất Tận, tên thật là Michael Andreas Helmuth Ende, nhà văn Đức, người được coi là một trong những tác gia của thế kỷ 20. Sự nghiệp của ông gắn liền với những tác phẩm nổi tiếng dành cho thiếu nhi. Có thể coi Michael Ende là một tiểu thuyết gia toàn tài. Ông viết cả sách cho người lớn, sáng tác nhiều vở kịch và thơ.
Khác với những nhà văn hiện đại nước Đức, Michael Ende viết những tác phẩm của mình hoàn toàn vì đam mê, không hề một chút mưu cầu danh vọng. Giới học giả gọi ông là nhà văn lãng mạn Đức cuối cùng, còn giới phê bình lại chỉ trích vì ông khuyến khích những ý tưởng viển vông.
Sự nghiệp Michael Ende khởi đầu tương đối khó khăn. Ông đầu quân cho một nhà hát nhưng cuối cùng phải sớm bỏ ngang vì thu nhập ít ỏi không thể duy trì cuộc sống. Ông chuyển sang làm biên kịch và nhà phê bình điện ảnh tự do không lâu sau đó. Michael Ende “chạm ngõ” văn chương với tiểu thuyết đầu tay viết cho trẻ em mang tên Jim Button và Luke – người lái tàu hỏa.
Nhưng vận rủi tiếp tục đeo bám cây viết tội nghiệp này khi tác phẩm liên tục bị từ chối xuất bản. Mãi đến năm 1960 cuốn sách mới được ra mắt. Ngay lập tức, tác phẩm trở thành một hiện tượng lạ trên văn đàn nước Đức đương thời và được công chúng hoan nghênh đón nhận.
Năm 1961 cuốn sách đem về cho Michael Ende giải thưởng Văn học thiếu nhi Tây Đức và được dịch sang 33 ngôn ngữ khác nhau. Một dấu mốc đáng nhớ trong sự nghiệp văn chương của ông.
Tuy thành công nhưng Michael Ende lại chịu nhiều chỉ trích. Nhiều nhà phê bình cho rằng là Ende đã "chạy trốn thế giới thực tại để mơ mộng hão huyền". Họ mỉa mai ông như là một văn sĩ quèn cho trẻ em. Ende đã cùng vợ qua Ý và định cư ở miền nam của Roma. Tại đây tiểu thuyết mang tính cổ tích Momo của ông ra đời.
Momo ra mắt tại nước Đức vào năm 1973. Đây cũng là tác phẩm mở ra sự nghiệp thành công chói lọi của Michael Ende. Trong một cuộc phỏng vấn nhanh, ông từng chia sẻ: “Nếu con người bỏ mặc thế giới nội tâm, họ sẽ quên đi giá trị thực của họ.
Thế giới nội tâm được tái hiện sinh động bằng thế giới bên ngoài của mỗi cá nhân. Nó phải được tạo ra, nuôi nấng và được phát hiện. Dù thế nào, hãy tạo ra một cuộc hành trình xuyên qua các miền thế giới, tự tìm tòi những giá trị và giữ thành của riêng, như vậy mọi thứ mới không bị phí hoài.”
Thoạt nghe có thể nhận ra ngay tư tưởng của Michael Ende rất gần Antoine de Saint-Exupéry trong Hoàng tử bé. Cả hai đều chọn viết cho thiếu nhi nhưng ngấm ngầm hướng tác phẩm của mình tới người lớn. Nhưng cách tiếp cận của Michael Ende rất nhẹ nhàng, ôn tồn và thoải mái.
Ông đóng vai là một người kể chuyện, dẫn độc giả vào thế giới sâu kín của họ, cũng bởi lẽ ấy trong Momo hình ảnh đâu đó của ông phảng phất qua người canh giữ thời gian Horus.
Những câu chuyện của Michael Ende luôn hàm chứa những chuỗi nhân sinh quan sâu sắc. Ý nghĩa của thời gian là gì? Tiền bạc hay vật chất cái nào mới là thứ quan trọng nhất? Phải, “thời gian là cuộc sống” như Michael Ende đã nói, và cuộc sống phải cảm nhận bằng trái tím. Triết lý ấy giản dị mà thật khó hiểu. Liệu trong thời đại của sự văn minh này có bao người được hưởng cái hạnh phúc nhỏ nhoi ấy một cách thực lòng?
Momo, một bé gái nghèo với đôi mắt đen tròn mở to, mái tóc đen dày chưa bao giờ được chải, luôn luôn xù bông. Không có cha mẹ, người thân, em nương náu trong phế tích của một nhà hát cổ vùng ngoại ô của thành phố châu Âu hiện đại. Momo sống hồn nhiên, vô tư, ai cho gì thì ăn nấy. Em rất dư dả thời gian, thoải mái vui đùa trong thế giới của mình.
Chẳng hề nhiều lời, Momo luôn im lặng lắng nghe câu chuyện, nỗi lòng của những cư dân sống quanh mình. Em vẫn luôn im lặng như thế, tồn tại trong sự thầm lặng kèm theo những cái nhìn thấu cảm soi rọi tâm can. Cũng vì lẽ ấy mà hết thảy ai cũng tìm Momo để lấy lại cân bằng. Sự việc ấy lặp đi lặp lại nhiều đến nỗi mà mỗi lần có kẻ nào đó bế tắc họ sẽ được ném một lời khuyên thẳng thừng, “Đến gặp Momo đi!”
Momo có hai người bạn thân đó là anh chàng Gigi “dẻo mỏ” và bác Beppo – phu quét đường. Hai kẻ tốt bụng và đáng mến, dẫu trời long đất lở họ cũng không bao giờ bỏ cô bé ở lại. Một già, một trẻ, một đứa nhóc cứ vậy vui vẻ sống qua ngày, bình yên ngắm nhìn trời sao. Nhưng cuộc sống êm ả ấy nhanh chóng bị xáo trộn khi bọn Màu Xám xuất hiện.
Những cư dân bắt đầu thay đổi. Họ cục cằn và dễ cáu giận, trẻ con bị nhốt vào trại tập trung, nhồi nhét những tư tưởng cứng nhắc. Những gã Màu Xám đã thao túng toàn bộ thị trấn, điều khiển những quan chức tại đây, buộc người dân phải sống như những nô lệ của công việc. Gigi và bác Beppo không phải ngoại lệ, họ cũng bị cuốn theo cơn lốc khắc nghiệt ấy. Momo phải nhanh chóng tìm ra sự thật và nhanh chóng cứu những người bạn của mình trước khi mọi thứ trở nên quá muộn.
Trong Momo là một chuyến phiêu lưu kỳ diệu của cô gái nhỏ tìm hiểu bản chất của thời gian. Những thứ nghe tưởng như rất triết lý nhưng lại được tác giả diễn giải đơn giản vô cùng. Em giành lại thời gian đã mất của loài người, giành lại nhân cách tốt đẹp của họ khi bị những gã Màu Xám tước đi.
Momo là hình ảnh tượng trưng cho phần người đẹp đẽ, được cất giữ sâu thẳm bên trong, nhưng lại chưa từng được mở đường khai phá. Con người khi sinh ra vốn đã mang những bản chất tốt đẹp, tự chúng ta đẩy mình trở nên xấu xí, bào mòn thời gian cho các mục đích cá nhân.
Con người càng phát triển bao nhiêu chúng ta càng đi ngược lại những gì tạo hóa đã ban tặng. Chúng ta tàn phá thiên nhiên, chết chìm trong công việc, tha hóa biến chất và trở thành một sinh vật đáng sợ. Momo là một bản ngã khác, một bản ngã của Michael Ende muốn trở về với các giá trị gốc rễ, thuận theo tự nhiên. Ông dũng cảm lao vào ngược dòng, chống lại những quan điểm đã được mặc định trong xã hội.
“Thời gian là vàng bạc” chỉ là cái nhất thời, sao chúng ta có thể vui khi chỉ biết ném mình cho công việc. “Giàu sang phú quý” có là gì khi xung quanh chúng ta không còn ai đó để chung vui. Những mệnh đề trên lần lượt được tái hiện qua câu chuyện của Gigi “dẻo mỏ” và bác Beppo – phu quét đường. Và cô bé Momo thấu hiểu bản chất của thời gian khi được du hành vào thẳm sâu trái tim của mình, ở đó thời gian được hình dung như những đoá hoa kỳ diệu liên tiếp nối nhau.
Trong Momo tác giả thể hiện câu chuyện bằng một văn phong thấm đẫm hình ảnh, trong sáng, truyền tải được những thông điệp trựu tượng tới cho thiếu nhi. Ông kể lại mạch chuyện với một thái độ điềm nhiêm, chậm dãi, từ từ làm sáng tỏ các bí ẩn, kích thích trí tò mò của độc giả, hệ như cách cô bé Momo được nghe những thanh âm đầu tiên từ trái tim.
Michael Ende đã chỉ ra, không phải nhờ những gì vốn có, vốn tồn tại, mà chính năng lực cá nhân của con người đang không ngừng sáng tạo ra thế giới. Momo đã thành công và trở thành một bước đệm chắc chắn tiếp nối sự thành công cho các tác phẩm của Michael Ende sau này.
***
Thời xưa, xưa lắm, khi con người còn nói những thứ ngôn ngữ khác hẳn bây giờ thì tại những vùng đất ấm áp đã từng có nhiều đô thị tráng lệ với biết bao lâu đài nguy nga của các bậc vua chúa công hầu, với những phố lớn thênh thang lẫn những phố nhỏ và ngõ ngách quanh co, với những đền đài uy nghi đầy các pho tượng thần được tạc bằng vàng hay cẩm thạch, với những khu chợ bán đủ mặt hàng từ mọi nước, với nhiều quãng trường đẹp đẽ rộng rãi là nơi người dân tụ họp để bình luận tin tức, để diễn thuyết hoặc nghe diễn thuyết. Song, đặc biệt là các thành phố này có nhiều nhà hát lớn.
Các nhà hát này trông cũng tương tự như các rạp xiếc thời bấy giờ, chỉ khác là ghế ngồi lẫn khán giả đều được ghép bằng đá tảng. Các dãy ghế cho khán giả được dựng cao dần lên theo hình bậc thang, giống như trong một cái phễu khổng lồ. Từ trên nhìn xuống thì một số công trình này hình tròn, một số khác hình bầu dục, một số khác nữa hình bán nguyệt. Người ta gọi chúng là nhà hát lộ thiên.
Có những nhà hát lộ thiên lớn bằng cả sân bóng đá, lại cũng có những nhà hát lộ thiên nhỏ hơn, chỉ đủ chứa vài trăm khán giả. Có nhà hát lộ thiên nguy nga với những cột trụ và những tượng điêu khắc công phu, lại có nhà hát lộ thiên đơn sơ giản dị. Những nhà hát lộ thiên này đều không có mái che, tất cả diễn ra dưới bầu trời rộng mở. Vì thế ở những nhà hát lộ thiên nguy nga có căng những tấm thảm thêu kim tuyến bên trên thềm đá ngồi để bảo vệ khán giả khỏi nắng cháy hay những trận mưa bất chợt. Tương tự, ở những nhà hát lộ thiên bình dân người ta dùng thảm cói hay thảm rơm. Nói tóm lại là: tiền nào của nấy! Nhưng dù sang hay hèn, mọi người đều có cùng sở thích, vì họ đều say mê nghe hát và xem diễn kịch.
Khi lắng nghe những tình tiết mủi lòng hay khôi hài diễn trên sân khấu thì, lạ lùng sao, họ cảm thấy cuộc đời được dàn dựng kia còn thật hơn cuộc sống thường nhật của họ. Thế là họ liền toàn tâm toàn ý lắng nghe cái sự thật khác lạ ấy.
Nhiều nghìn năm đã qua đi từ đó. Những thành thị lớn xưa kia nay đã điêu tàn; các đền đài, cung điện nguy nga xưa đã sụp đổ. Những khối đá xưa đã bị gió mưa, thời tiết nóng lạnh xói mòn đục ruỗng. Những nhà hát lộ thiên xưa nay chỉ còn là những phế tích đổ nát hoang tàn với tiếng ve sầu nỉ non khúc nhạc buồn đơn điệu, nghe như trái đất đang thở dài trong giấc ngủ.
Nhưng một vài thành thị cổ xưa này vẫn tiếp tục là những thành phố lớn cho đến tận ngày nay. Tất nhiên cuộc sống ở đây đã khác xưa rồi. Nay người dân đi ô-tô hay xe điện, dùng điện thoại để trò chuyện và đèn điện để chiếu sáng. Nhưng đây đó, giữa những tòa nhà mới, vẫn còn thấy sót lại đôi ba cột trụ, một cổng thành hoặc một mảng tường hay một nhà hát lộ thiên thời xa xưa ấy.
Chuyện cô bé Momo diễn ra tại một thành phố như thế đấy.
Ở rìa hướng nam thành phố lớn này, nơi xưa nay vẫn lô nhô những thửa ruộng và những ngôi nhà nghèo xơ nghèo xác không khác nào những túp lều, có một nhà hát lộ thiên nhỏ hoang tàn nằm khuất trong một cánh rừng thông. Ngay từ xa xưa nó vốn đã không phải thứ nhà hát lộ thiên huy hoàng mà thuộc loại bình dân. Đến thời chúng ta, nghĩa là thời bắt đầu câu chuyện của Momo, phế tích kia hầu như bị quên lãng hoàn toàn. Chỉ dăm ba vị giáo sư khảo cổ học còn biết đến nó, nhưng họ cũng chả quan tâm mấy, vì ở đó không còn gì để họ nghiên cứu nữa. Mà so với những danh lam thắng cảnh trong thành phố lớn này thì nó làm sao bì nổi. Thành ra họa hoằn lắm mới có dăm ba du khách lạc bước đến đây, leo lên những bệ đá cỏ rậm rêu phong, đi loanh quanh ồn ào cười nói, chụp vài tấm ảnh lưu niệm rồi bỏ đi, trả lại nhà hát lộ thiên tròn xây bằng đá này sự tĩnh lặng và rồi lũ ve sầu lại tiếp tục tấu khúc nhạc sầu muôn thuở của chúng, khúc nhạc nào cũng giống hệt nhau.
Thật ra chỉ những cư dân quanh đấy mới biết đến công trình tròn trịa lạ lùng này. Ở đó họ thả cho dê ăn cỏ, còn đám trẻ dùng cái bãi tròn ngay chính giữa làm sân đá bóng; thỉnh thoảng mới lại có dăm ba cặp tình nhân dùng làm nơi hò hẹn.
Nhưng rồi một ngày nọ người ta kháo nhau rằng mới có một kẻ đến ở tại khu phế tích này. Một đứa nhỏ. Một cô bé thì phải. Tuy nhiên không ai dám nói chắc, vì nó ăn mặc hơi lạ lùng nên chẳng rõ gái hay trai. Nó tên là Momo hay na ná như thế.
Quả thật bề ngoài Momo hơi khác thường, có thể khiến cho những người ưa sạch sẽ và ngăn nắp phải giật mình kinh hãi. Momo nhỏ thó, gầy gò khiến không ai dám nói chắc cô bé mới tám tuổi hay đã mười hai. Tóc cô đen nhánh và bù xù như chưa từng biết lược hay kéo là gì. Đôi mắt cô cũng đen nhánh, to tròn thật đẹp, còn đôi bàn chân cũng đen đúa vì cô hầu như toàn đi chân đất. Chỉ mùa đông cô mới đi giày, nhưng cọc cạch và rộng rinh. Bởi Momo chẳng có gì khác nữa, ngoài những thứ cô nhặt nhạnh được hoặc người ta cho. Cái váy của cô may chằng may đụp từ bao miếng vải đủ màu, dài tận mắt cá chân. Cô khoác thêm một chiếc áo khoác đàn ông rộng thùng thình xắn đến cổ tay mà Momo không muốn cắt bớt phòng khi còn lớn nữa. Vả lại, biết chừng nào cô mới có được chiếc áo khoác đẹp, tiện dùng nhiều túi thế này.
Phía dưới sân khấu cỏ mọc um tùm của nhà hát hoang phế này có đôi ba khoảng trống đã sụp lở gần hết, nhưng vẫn có thể chui ra chui vào được qua một lỗ hổng ở vách tường ngoài. Momo đã biến chỗ đó thành nơi cư ngụ. Một buổi trưa nọ, có mấy người ở quanh đấy tìm đến hỏi han. Momo sợ hãi nhìn họ, vì lo sẽ bị đuổi đi. Nhưng cô thấy rằng họ là những người tử tế. Họ cũng nghèo và từng trải.
“Vậy là em thích chỗ này?” Một người trong bọn hỏi.
“Vâng.” Momo đáp.
“Và em muốn ở lại đây?”
“Vâng, em rất muốn.”
“Nhưng chẳng lẽ không có ai chờ em về sao?”
“Không.”
“ Ý ta muốn hỏi: chẳng lẽ em không phải về nhà ư?”
“Đây là nhà em mà,” Momo vội vàng cả quyết.
“Thế em từ đâu đến vậy, hở cô bé?”
Momo huơ tay tỏ ý đến từ một nơi xa xôi nào đó.
“Thế bố mẹ em là ai?” Người nọ hỏi tới.
Cô bé bối rối nhìn ông ta và mọi người , khẽ nhún vai. Họ nhìn nhau thở dài.
“Em không việc gì phải sợ,” người nọ nói tiếp, “bọn ta không đuổi em đâu. Chỉ muốn giúp em thôi.”
Momo lặng lẽ gật đầu, nhưng chưa thật tin.
“Em nói rằng em tên Momo đúng không?”
“Vâng.”
“Cái tên đẹp lắm, nhưng ta chưa từng được nghe. Ai đặt tên cho em vậy?”
“Chính em đấy,” Momo đáp.
“Em tự đặt tên cho mình thế à?”
“Vâng.”
“Thế em sinh năm nào?”
Momo ngẫm nghĩ rồi đáp: “Theo như em nhớ thì em sinh ra từ thời não thời nào rồi.”
“Em không có cô dì, chú bác, ông bà , không có gia đình để cùng ở hay sao?”
Momo chỉ im lặng nhìn ông nọ, rồi lẳm bẳm: “Đây là nhà em mà.”
“Thôi được,” người đó nói, “nhưng em còn nhỏ dại – em bao nhiêu tuổi rồi?”
“Một trăm,” Momo ngập ngừng đáp.
Mọi người cười ồ, cho rằng cô đùa.
“Hỏi thật mà, em bao nhiêu tuổi?”
“Một trăm lẻ hai,” Momo đáp, hơi lúng túng.
Mãi sau mới vở lẽ rằng cô chỉ nghe lõm bõm đâu đó mấy con số nọ, song chẳng hiểu gì, vì chưa từng được ai dạy đếm.
“Này em,” nguời nọ nói sau khi đã bàn bạc với những người khác, “em có muốn bọn ta báo cảnh sát chuyện em ở đây không? Người ta sẽ đưa em vào trại mồ côi, rồi em sẽ được nuôi ăn, có giường ngủ đàng hoàng, được học làm tính, học đọc, học viết và học nhiều điều nữa. Em nghĩ sao nào?”
Momo hoảng hốt nhìn ông ta.
“Không,” cô lẩm bẩm, “em không muốn vào trại đâu. Em đã từng ở đó. Với nhiều trẻ khác nữa. Ở đó cửa sổ gắn song sắt. Ngày nào cũng bị đòn – mà toàn oan. Một đêm nọ em mới vượt tường trốn ra. Thành ra em không muốn trở về đó nữa đâu.”
“Ta hiểu,” một ông lớn tuổi gật đầu nói. Những người khác cũng gật gù vẻ cảm thông.
“Thôi được,” một người đàn bà nói, “nhưng cháu còn nhỏ. Phải có ai lo cho cháu chứ.”
“Cháu tự lo được mà,” Momo đáp, lòng khấp khởi yên tâm.
“Cháu lo được thật không đấy?” Người đàn bà nọ hỏi.
Momo im lặng một lúc rồi khẽ đáp: “Cháu đâu cần gì nhiều.”
Mọi người lại nhìn nhau thở dài rồi gật đầu.
“Momo này,” người đàn ông đã mở đầu buổi trò chuyện lên tiếng, “bọn ta nghĩ rằng em có thể đến ở với một người trong bọn ta đây. Tuy nhà cửa của bọn ta chẳng rộng rãi gì, đa số lại còn phải nuôi cả bầy con, nhưng bọn ta nghĩ thêm một người nữa cũng chẳng đáng bao nhiêu. Em nghĩ sao?”
“Em cảm ơn,” Momo đáp, lần đầu tiên cô mỉm cười, “cảm ơn! Nhưng xin cứ để em ở đây có được không?”
Nhóm người kia bàn qua tán lại thật lâu, rồi họ đồng ý. Vì, theo họ thấy, sống ở đây cũng giống như sống với một người trong số họ thôi. Còn họ sẽ cùng nhau săn sóc Momo, vì chung nhau gánh vẫn dễ hơn là chỉ riêng một người lo.
Trước mắt, họ liền ra sức dọn dẹp, sửa sang căn phòng tường đã xiêu vẹo Momo đang trú ngụ. Thậm chí một người trong bọn, vốn là thợ nề, đắp ngay cho Momo một bếp lò bằng đá. Anh còn xoay được cả một ống thông khói han gỉ nữa. Một bác thợ mộc già lấy ván thùng đóng một chiếc bàn con và hai cái ghế. Sau hết, mấy bà khiêng đến một một khung giường sắt phế thải trang trí hoa văn với một tấm nệm chỉ mới hơi sờn và hai cái chân. Thế là cái hang hốc bằng đá dưới nền sân khấu hoang tàn đã biến thành một căn phòng nhỏ ấm cúng. Cuối cùng, anh chàng thợ nề kiêm họa sĩ kia lại còn vẽ lên tường một bức tranh hoa, với đủ cả khung ảnh lẫn đinh treo.
Rồi đám con cái cái của nhóm người ấy mang đến cho Momo những món gia đình chúng nhịn bớt được: đứa mang thỏi pho-mát, đứa mang ổ bánh mì nhỏ, đứa mang ít trái cây, và nhiều thứ khác nữa. Chúng đông lắm, nên chiều hôm ấy chúng đã cùng nhau mừng Momo một buổi tiệc “tân gia” nho nhỏ nhưng thịnh soạn. Một bữa tiệc thật vui của người nghèo.
Mối giao hảo thân tình giữa cô bé Momo và những người láng giềng đã bắt đầu như thế đấy.
Mời các bạn đón đọc Momo (Tiếng Việt) của tác giả Michael Ende.