Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Khổng Tử & Luận Ngữ

LỜI THƯA

Do trong Lời nói đầu cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo:

Trong tập này có nhiều chỗ dẫn chứng ở Luận ngữ, nhưng tôi chỉ ghi xuất xứ (thiên nào, bài nào) chứ không chép lại hết được, vì vậy độc giả cần có bản Luận ngữ tôi dịch và để tra cho tiện”.

và do trong cuốn Luận ngữ và cuốn Khổng Tử, có nhiều chỗ cụ Nguyễn Hiến Lê bảo “coi cuốn Nhà giáo họ Khổng”, nên chúng tôi gom cả ba cuốn: Luận ngữ, Khổng TửNhà giáo họ Khổng vào trong eBook này. Ngoài ra, trong phần Đọc thêm, chúng tôi còn chép một số bài trích trong các tác phẩm sau đây của cụ Nguyễn Hiến Lê: Đại cương triết học Trung Quốc (soạn chung với cụ Giản Chi), Sử ký của Tư Mã Thiên (soạn chung với cụ Giản Chi), Cổ văn Trung Quốc và Sử Trung Quốc.

Goldfish
Tháng 10/2011.

***

Vài lời thưa trước

Trong bài Lời nói đầu cuốn Khổng tử, cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết đôi điều về việc dịch lại bộ Luận ngữ như sau:

“Tôi đã bỏ ra hơn hai tháng đọc lại những sách về Khổng tử mà tôi có hoặc mượn được (như của Lữ Chấn Vũ: Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc; Hầu ngoại Lư: Tư tưởng cổ đại Trung Quốc; Quan Phong và Lâm Duật Thời: Bàn về Khổng Tử – đều do ngoài Bắc dịch); đọc lại các bản dịch và chú giải Luận ngữcủa mình, và của Trung Hoa (như Luận ngữ độc bản của Thẩm Tri Phương và Tưởng Bá Tiềm, Luận ngữ dịch chú của Triệu Thông; lại bỏ ra hơn hai tháng nữa để dịch lại bộ Luận ngữ, vừa dịch vừa phân loại theo đề tài lập bảng tra tên người, tên đất.”

Trong cuốn Luận ngữ này, cụ Nguyễn Hiến Lê có nói rõ là bài XVI.1 được dịch lại: trong chú thích bài đó, cụ viết: “Bài này chúng tôi dịch trong cuốn Nhà giáo họ Khổng (Cảo Thơm, 1972), nay dịch lại.”

Ngoài bài XVI.1 đã dẫn trong cuốn Nhà giáo họ Khổng được cụ dịch lại, còn nhiều bài khác nữa đã được cụ dẫn trong một số tác phẩm khác cũng được cụ dịch lại mặc dầu trong cuốn Luận ngữnày cụ không nêu ra, ví dụ như (mỗi tác phẩm tôi chỉ chọn một bài):

  • Bài II.2: Trong bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc, câu “Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết: Tư vô tà”, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Cả 300 thiên trong Kinh Thi, chỉ một câu có thể trùm được, là: không nghĩ bậy”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ dịch lại, đặc biệt là ba chữ “tư vô tà”, như sau: “Kinh Thi có ba trăm thiên, một lời đủ bao quát tất cả, là tư tưởng thuần chính.”
  • Bài VI.8: Trong bộ Mặc học, câu “Vô chi, mệnh hĩ phù? Tư nhân dã nhi hữu tư tật dã!”, cụ dịch là: “Con [tức Bá Ngưu] sắp mất. Số mệnh đó thôi. Người như vậy mà bệnh như vậy!”; Trong cuốn Luận ngữ, cụ hiểu chữ “vô” theo một nghĩa khác, và cả câu đó được lại thành: “Vô lí! Do mệnh trời chăng? Con người như vậy mà bị bệnh đó!
  • Bài VIII.3: Trong bộ Trang tử – Nam hoa kinh, câu “Nhi kim nhi hậu, ngô tri miễn phù, tiểu tử” (lời của Tăng tử), cụ dịch là: “Từ đây về sau ta mới biết chắc rằng ta giữ được (thân ta) khỏi các điều hư hỏng, tàn tật đó các trò”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ dịch lại là: “Từ nay về sau, ta mới biết thoát khỏi hình lục, đó các trò” (cụ đã hiểu hai chữ “miễn phù” theo một nghĩa khác).
  • Bài XVIII.6: Trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc, câu “Thao thao giả thiên hạ giai thị dã, nhi thuỳ dĩ dịch chi”, hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch là: “Ùa ùa như nước chảy một chiều, thiên hạ đều thế cả, ai mà theo mình để sửa đổi việc loạn ra trị”. Trong cuốn Luận ngữ, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch lại (đặc biệt là hai chữ “thao thao”): “Khắp thiên hạ đâu đâu cũng là dòng nước (đục) cuồn cuộn, ông Khổng Khâu sẽ cùng với ai mà sửa thiên hạ?

Lý do khác biệt trong hai lần dịch bài VI.8 là do chữ 亡 trong nguyên văn. Trong bộ Mặc học, cụ Nguyễn Hiến Lê đọc chữ đó là “vong” và dịch theo nghĩa của chữ 亡 là “chết mất”; còn trong cuốn Luận ngữ cụ đọc là “vô” và dịch theo nghĩa của chữ “vô” 無là “không”[1]. Cũng có trường hợp đọc khác nhưng ý nghĩa cũng vậy như chữ 哂 trong bài XI.25, trong cuốn Cổ văn Trung Quốc, cụ đọc là “sẩn” (Thiều Chửu cũng đọc là “sẩn”); còn trong cuốn Luận ngữ, cụ đọc là “thẩn”, nhưng nghĩa cũng vẫn là “mỉm cười”. Nhân vật Nhụ Bi trong bài XVII.20 cuốn Luận ngữ, chữ Hán là 孺悲, trong cuốn Nhà giáo họ Khổng (bài Dương Hoá – 19) gọi là Nhũ Bi.

Cũng trong cuốn Cổ văn Trung Quốc, cụ Nguyễn Hiến Lê tỏ ý ngờ rằng thiên Hương đảng (thiên X) là do người sau chép thêm; cụ bảo: “(…) hình như cũng có vài chỗ do người đời sau viết thêm, chẳng hạn như thiên Hương đảng”. Nhưng trong cuốn Luận ngữ này và trong cuốn Khổng tử nữa, chúng ta không thấy cụ nhắc lại ý nghi ngờ đó nữa.


Cuốn Luận ngữ mà tôi chép lại ở đây là theo ebook do một bạn trẻ, bạn PNT, gởi tặng. Ebook đó, về sau gọi là “ebook nguồn”, không ghi tên nhà xuất bản và năm xuất bản. Theo ảnh bìa đăng trên trang http://www.sachbaovn.vn/sach/khoa-hoc-xa-hoi-MTg/luan-ngu-MTkwQw thì nhà xuất bản là nhà Văn học (tôi tạm dùng ảnh đó, sửa lại đôi chút để làm ảnh bìa cho ebook mới này).

Trong ebook nguồn cũng không chép chữ Hán, các chữ Hán trong ebook mới này là do tôi ghi thêm dựa theo các bản Luận ngữ đang lưu hành trên mạng, đặc biệt là bản Khổng tử Luận ngữdo Nguyễn Thiên Thụ chú dịch hiện đang phổ biến trên website Sơn Trung Thư Trang[2]. Bản của Nguyễn Thiên Thụ và bản của cụ Nguyễn Hiến Lê có vài chỗ không giống nhau. Sau đây là vài ví dụ về chữ Hán khác nhau:

  • Trong bài I.6, Nguyễn Thiên Thụ chép là: 凡愛眾,而親仁“phàm ái chúng nhi thân nhân” và dịch là: “Thương mọi người, mà gần gũi người nhân đức”; tương ứng với chữ “phàm” 泛, cụ Nguyễn Hiến Lê chép là “phiếm” [泛] và dịch là: “yêu khắp mọi người mà gần gũi người nhân đức.”
  • Trong bài II.16, Nguyễn Thiên Thụ chép là: 攻乎異端,斯害也己 “Công hồ dị đoan tư hại dã kỉ” và dịch là “Nghiên cứu việc hoang đường thì có hại cho mình”; chữ cuối, cụ Nguyễn Hiến Lê chép là “dĩ” [已] và dịch là: “Chuyên tâm nghiên cứu những cực đoan thì có hại.”
  • Trong bài IX.3, Nguyễn Thiên Thụ chép là: 雖遠衆 “tuy viễn chúng” và dịch là: “trái với đại chúng”; cụ Nguyễn Hiến Lê chép là: “tuy vi chúng” (tức 雖違衆) và dịch là: “tuy trái với số đông.”

Tôi cũng tham khảo bản Luận ngữ do Phùng Hoài Ngọc biên dịch và bàn luận đăng trên http://giangnamlangtu.wordpress.com/2011/07/09/lu%E1%BA%ADn-ng%E1%BB%AF-kh%E1%BB%95ng-t%E1%BB%AD/. Bản này cũng có vài chỗ khác biệt với bản của cụ Nguyễn Hiến Lê, ví dụ như:

  • Trong bài II.16, Phùng Hoài Ngọc chép là: 攻乎異端,斯害也已 “Công hồ dị đoan tư hại dã dĩ” và dịch là: “Phá bỏ mê tín dị đoan, cái hại sẽ tiêu tan”. Phùng Hoài Ngọc không chú thích, nhưng ta có thể đoán được tác giả hiểu tương tự như lời chú thích của cụ Nguyễn Hiến Lê: “Có người hiểu khác: công [攻] là công kích, [已] nghĩa là [止] (chỉ): công kích những cái cực đoan thì ngăn được hại”.
  • Trong bài I.13, Phùng Hoài Ngọc chép lời của Hữu tử (tức Hữu Nhược) như sau: …人不失其亲,亦可宗也 “…Nhân bất thất kỳ thân, diệc khả tông dã”, và dịch là: “…Vì không mất đi sự thân cận lễ nghĩa đó nên giữ được tông pháp”. Cụ Nguyễn Hiến Lê thì dịch là: “Thân cận với người đáng cho mình thân cận (tức người có đức nhân) thì người đó mình có thể tôn kính được (hoặc nương nhờ người đáng cho mình thân cận – người có đức nhân – thì người đó có thể làm chủ mình được)”, và chú thích: “Chữ nhân ở đây có thể hiểu là thân cận hay nương nhờ. Chữ tôn có thể hiểu là kính mà coi là chủ mình”. Nguyên văn chữ “nhân”, trong bản nguồn không chép chữ Hán như tôi đã nói ở trên, nhưng hầu hết các bản trên mạng, trừ bản Phùng Hoài Ngọc ra, đều chép là 因.

Ngoài việc ghi thêm chữ Hán và các chú thích, trong phần Phụ lục tôi còn chép trọn tiết Luận ngữ trong cuốn Cổ văn Trung Quốc[3]. Trong tiết đó cụ Nguyễn Hiến Lê giới thiệu tác phẩm Luận ngữ và ba bài: I.1, VII.14 và XI.25.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn bạn PNT và xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn.

Goldfish Tháng 7 năm 2011 Bổ sung tháng 9 năm 2011

***

GIỚI THIỆU NGUỒN GỐC VÀ CÁC BẢN

Bộ Luận ngữ đứng đầu trong Tứ thư. Tôi nghĩ nếu bỏ ra bốn năm chục bài chép ngôn hành của các môn sinh như Tăng Tử, Tử Hạ, Hữu Nhược, Tử Du, Tử Trương mà trong tập Khổng tử (thiên IV) tôi đã giới thiệu sơ lược, chỉ giữ lại hết những bài chép ngôn hành của Khổng tử – khoảng 500 bài, toàn bộ gồm khoảng năm trăm rưỡi bài – thì Luận ngữ đáng gọi là “Kinh”. Tất cả các học giả từ xưa tới nay đều coi nó là kinh của Khổng giáo, cũng như Đạo Đức kinh là kinh của Lão giáo. Nó còn chép trung thực tư tưởng của Khổng tử, đáng tin hơn Đạo Đức kinh nữa, vì bộ này gồm nhiều bài do người sau thêm vào, (coi bộ Lão tử chúng tôi soạn mà chưa xuất bản được)[4]. Do đó, muốn tìm hiểu học thuyết của Khổng tử thì phải căn cứ trước hết vào Luận ngữ, vì chín phần mười Kinh Thư, Kinh Lễ, Trung dung, Mạnh tử, tư tưởng không còn đúng của Khổng tử (mặc dầu cũng có điểm giống); Đại học có hệ thống quá (có nhà còn ngờ không phải của Tăng tử viết); Trung dung có một phần siêu hình mà Khổng tử tránh siêu hình; còn Mạnh tử phóng đại phần duy tâm của Khổng tử.

Vì những lẽ đó, trong cuốn Nhà giáo họ Khổng và cuốn Khổng tử[5] chúng tôi ráng chỉ dùng Luận ngữ để trình bày tư tưởng của Khổng.

***

Trong di sản đồ sộ của Nguyễn Hiến Lê thì có rất nhiều tác phẩm họ không chịu in lại - chắc vì khó đến được số đông. Nguyễn Hiến Lê dành toàn bộ năm tháng cuối đời để viết về “Bách gia chư tử” và nhiều cuốn sau khi in lần đầu vào năm 1993 chưa bao giờ in lại cả. Nay được tái bản, nhiều bạn quan tâm sẽ lần đầu được tiếp cận.

Tuyển tập viết về câc tác gia Triết học tiên Tần của Nguyễn Hiến Lê, Bách Gia Tranh Minh gồm có:

  • [Khổng Tử](https://www.dtv-ebook.com/tim-kiem.html?keyword=Khổng Tử)
  • Lão Tử & Đạo Đức kinh
  • Trang Tử & Nam Hoa kinh
  • Mạnh Tử
  • [Tuân Tử](https://www.dtv-ebook.com/tim-kiem.html?keyword=Tuân Tử)
  • [Hàn Phi Tử](https://www.dtv-ebook.com/tim-kiem.html?keyword=Hàn Phi Tử)
  • [Mặc Tử và Biệt Mặc](https://www.dtv-ebook.com/tim-kiem.html?keyword=Mặc Tử và Biệt Mặc)
  • [Liệt Tử & Dương Tử](https://www.dtv-ebook.com/tim-kiem.html?keyword=Liệt Tử và Dương Tử) Mời các bạn đón đọc Khổng Tử & Luận Ngữ của tác giả Nguyễn Hiến Lê.