Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Các cụ Trạng Việt Nam

Nói về tiếng cười dân gian trong kho tàng văn học Việt Nam, không thể bỏ qua những câu chuyện của các ông Trạng. Từ Bắc chí Nam xưa nay vẫn lưu truyền nhiều giai thoại, nhiều tích truyện về họ, những người thông minh, lí lẽ sắc bén, dám nói dám làm. Hình ảnh làng quê xưa, những phong tục, sinh hoạt thường ngày hiện lên vui nhộn, ấm nồng qua những câu chuyện Trạng. Đó là hơi thở cuộc sống đồng quê mộc mạc; là tinh thần vui sống, chống ưu phiền; là tư tưởng tự do, phóng khoáng của người Việt.

Các cụ Trạng Việt Nam gồm có:

  • Trạng Ăn
  • Trạng Hầu
  • Trạng Bùng
  • Trạng Mõ
  • Trạng Lợn
  • Trạng Ác
  • Trạng Hiền
  • Trạng Trình

***

Phan Kế Bính sanh năm 1875, mất năm 1921, quê quán ở làng Thụy Phương sau đổi là Thụy Khuê, thuộc huyện Hoàn Long, một làng ở ngoại ô phía Bắc thành Hà Nội, gần làng Yên Thái (tục gọi là làng Bưởi, chuyên nghề làm giấy).

Vì theo Thiên Chúa Giáo nên sau khi chánh quyền Pháp được đặt xong ở Bắc Hà, Phan Kế Bính đã thông thạo chữ quốc ngữ và chữ Pháp, ngoài cái học Hán văn mà ông đã theo đuổi từ nhỏ trước khi Tây làm chủ.

Năm 1906 ông thi đỗ Cử Nhơn dưới thời Thành Thái. Chúng ta nên nhớ là vào năm 1906 Pháp vừa bắt xong chiếc cầu Long Biên (thời xưa gọi là cầu Doumer, tên của viên toàn quyền hồi đó) ngang qua sông Hồng. Trong buổi lễ khánh thành chiếc cầu tiêu biểu cho nền văn minh khoa học của Pháp giữa nơi “ngàn năm văn vật” này, toàn quyền Paul Doumer đã cố mời cho được vua Thành Thái ra dự lễ để khoe trương uy thế và sức mạnh của Pháp.

Uy thế của kẻ chinh phục đắc thắng, thực sự đã lan tràn trong mọi lãnh vực: cả đến việc tổ chức bộ máy chánh quyền, việc bổ dụng quan lại họ còn nắm chặt thì cái việc thao túng các khoa thi hương, do Nam triều mang danh nghĩa tổ chức không phải là khó. Và việc đẩy một số cán bộ tay sai của họ qua ngưỡng cửa khoa cử, để tiến xa hơn trên con đường thống trị văn hóa và hành chánh phải đuợc coi là một việc làm tất nhiên của thực dân Pháp.

Trong số cán bộ tay sai được Pháp đào tạo vào buổi ấy, chúng ta có thể phân ra hai loại: một là loại cán bộ hành chánh, sau khi được Pháp tô vẽ cho thành ông Nghè, ông Cử, rồi được bổ đi làm tri huyện, tri phủ để trở thành tuần phủ, tổng đốc rất chóng, còn một nửa là loại cán bộ văn hóa sau khi khoác nhãn hiệu Nho giáo khoa bảng rồi, được Pháp dọn đường cho đóng vai trò văn gia, học giả để làm công tác biên tập trong báo giới hoặc trước tác trong văn giới.

Phan Kế Bính là một cán bộ cốt cán của Pháp trong loại thứ hai này.

Ngay sau khi trở thành Ông Cử năm 31 tuổi, Phan Kế Bính được tung vào làng báo, gia nhập ban biên tập của các tờ Đăng Cổ Tùng Báo, Đông Dương Tạp chí, Trung Bắc Tân Văn và tờ Học Báo. Đây đều là những nhựt báo và tạp chí hoặc do Pháp trực tiếp điều khiển, hoặc do Pháp ngấm ngầm bảo trợ.

Trong khoảng 15 năm làm báo, phục vụ cho văn hóa mới của thực dân Pháp, Phan Kế Bính đã biên soạn được hai tập dã sử “Nam hải dị nhân liệt truyện” và “Hưng đạo Đại vương truyện” cả hai đều nặng phần giả tưởng, nhẹ phần thực sử: có tánh chất tiểu thuyết hơn là sưu khảo, nhằm tác dụng biến những sự thực lịch sử thành hoang đuờng bằng cách khoác thêm các nhân vật và tình tiết một hình thức thần kỳ hơn cả truyền thuyết. Tuy nhiên, đáng coi là quan trọng hơn cả trong sự nghiệp viết lách của Phan Kế Bính phải kể đến Việt Hán Văn Khảo (xuất bản năm 1918) và Việt Nam Phong tục (đăng trên Đông Dương Tạp chí từ số 24 đến số 49 trong các năm 1913 – 1914) (1).

Gác ra ngoài cuốn “Việt Hán Văn khảo” là cuốn sách bình giải văn chương thi ca, ở đây tôi chỉ xin nói đến cuốn “Việt Nam phong tục” có thể được coi như một tác phẩm điển hình nhứt cho thủ đoạn triệt hạ Nho Phật của thực dân và tay sai trong hồi đầu thế kỷ.

***

Trạng Trình

Tiên sinh húy là Bỉnh Khiêm, hiệu là Bạch vân cư sĩ người làng Trung am, huyện Vĩnh lại, tỉnh Hải dương. Tiên thế nhà ngài có âm đức, đời ông là Văn Tỉnh được phong tặng Thiếu bảo Tư quận công, được ngôi dương cơ, hợp vào kiểu đất của Cao Biền. Đời thân phụ ngài là Văn Định được phong tặng làm Thái bảo Nghiêm quận công. Mẹ ngài là Từ Thục phu nhân họ Nhữ, nguyên là con gái hộ bộ thượng thư Nhữ văn Lan, ở làng An Tử, huyện Tiên Minh. Bà ấy thông kinh sử, giỏi văn chương, mà lại tinh nghề tướng số.

Bà ấy kén chồng đến ngoài hai mươi tuổi thấy ông Văn Định có tướng sinh ra quí tử mới lấy. Về sau, lại gặp một chàng trẻ tuổi đi qua bến Hà, ngạc nhiên nói rằng: "Tiếc thay ! Khi trước không gặp người này! " Hỏi ra thì chàng ấy là Mạc Đăng Dung (về sau làm vua nhà Mạc).

Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi đời Hồng Đức (niên hiệu vua Lê Thánh Tôn); đẫy đà to lớn, mặt mũi khôi ngô, chưa đầy tuổi tôi đã biết nói.

Một khi Văn Định ẵm trên tay, bỗng dưng nói rằng "Mặt trời mọc về phương Đông". Văn Định lấy làm kỳ dị. Đến năm ngài lên bốn tuổi, phu nhân dậy ngài học chính văn trong kinh truyện dậy đến đâu thuộc lòng đến đấy. Bà ấy lại dậy học thuộc lòng vài bài thơ nôm.

Một bữa, phu nhân đi vắng, Văn Định kéo một cái dây đùa với con, rồi ngâm đùa một câu rằng: "Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung". Đương đọc dở dang thì Bỉnh Khiêm tiếp: "Vén tay tiên hốt hốt rung". Văn Định thấy con thông minh, mừng lắm, về khoe tài với phu nhân. Phu nhân nói rằng:

- Mặt trăng là phận bày tôi, sao ông lại dậy con điều ấy?

Văn Định thẹn thò xin chịu lỗi, nhưng bà ấy vẫn còn căm tức, xin từ về, nhất định không ở đấy nữa, về sau bà ấy già đòi ở nhà bố mẹ đẻ. Nhưng tục truyền bà ấy tức ông Văn Định lên Sơn Tây, lấy chồng khác sinh ra ông Phùng Khắc Khoan (xem bài Trạng Bùng).

Khi Bỉnh Khiêm còn để hai trái đào, cùng bọn trẻ tắm ở bến Hàn, có người đi thuyền trông thấy nói rằng:

- Tiếc thay cho thằng bé này, bộ da dầy lắm chỉ làm được Trạng nguyên, Tể tướng thôi!

Khi ngài bé thì ở nhà, đến lúc lớn, nghe tiếng ông Bảng Nhỡn Lương đắc Bằng hay chữ, mới vào Thanh Hóa theo học ông Bảng Nhỡn.

Lương đắc Bằng vốn ở làng Hội Trào, huyện Hoàng Hóa, nguyên có một chi họ lạc sang ở Vân Nam, đời đời làm quan bên Tàu. Khi Đắc Bằng sang sứ nhà Minh gặp một người cùng họ là Lương nhữ Hốt cho một quyển "Thái Át thần Kinh". Đắc Bằng đem về học tập cho nên tinh nghề lý số, việc gì cũng tính biết được trước.

Nguyễn Bỉnh Khiêm học hết được phép thuật của ông Lương Đắc Bằng. Khi ông Đắc Bằng mất, dặn lại Nguyễn Bỉnh Khiêm về sau phải trông nom con mình là Lương hữu Khánh.

Trong năm Quang Thiêu (Lê Chiêu Tôn) có việc biến loạn, Nguyễn Bỉnh Khiêm ở ẩn một chỗ, không muốn cần tiếng tăm với đời. Bấy giờ Trịnh Tuy, Mạc Đăng Dung cũng cố ý muốn tranh quyền, đánh nhau luông mấy năm. Ngài tính số Thái Ất, biết có nhà Lê lại khôi phục được.

Ngài có làm bài thơ cảm hứng sau này:

Non sông nào phải buổi bình thời

Thú đánh nhau chi khéo nực cười

Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổi?

Núi xương sông tuyết, thảm đầy vơi

Ngựa phi chắc có hồi quay cổ (1)

Thú dữ nên phòng lúc cắn người (2)

Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa

Bên đầm say hát, nhởn nhơ chơi.

Về sau nhà Mạc chiếm giữ kinh thành, bốn phương hơi yên ổn, các bạn bè nhiều người khuyên ngài ra làm quan. Ngài bất đẵc dĩ phải ra thi đỗ Trạng Nguyên năm Đại Chính thứ nhà Mạc. Bấy giờ ngài đã bốn mươi tư tuổi.

Vua nhà Mạc cắt ngài làm Tả thị lang, Đông Các đại học sĩ. Ngài làm quan được tám năm, trước sau dâng sớ hạch mười tám người lộng thần, nhân có chàng rể là Phạm Đạo cũng kiêu hoạnh, ngài sợ phải vạ lây, mới từ quan cáo về dưỡng lão.

Khi ngài trí sĩ rồi, làm nhà chơi mát ở mé dưới làng gọi là Bạch Vân Am, lại bắc hai nhịp cầu gọi là Nghênh phong và cầu Tràng Xuân, thường thường ra chơi hóng mát. Lại làm một cái quán Trung tân ở bên sông Tuyết Giang, dựng bia ký sự mình. Khi thì ngài bơi thuyền chơi ở bể Kim Hải và bể Úc hải, khi thì đi chơi ở các núi An tử, núi Ngọa vân và núi Đồ sơn. Đi đến đâu làm thơ ngâm vịnh đến đấy, hoặc gặp chỗ nào có cây cối mát, chim kêu ríu rít thì lấy làm khoái chí lắm, nhởn nhơ cả ngày.

Ngài tuy ở nhà, nhưng vua nhà Mạc vẫn coi ngài quí trọng, nhà nước có công việc gì to thì sai sứ đến hỏi tận nhà, hoặc khi mời về Kinh mà hỏi. Ngài bàn định lắm điều ích lợi cho nhà nước, nhà Mạc phong ngài làm Lại bộ thượng thư, Thái phó Trình quốc công vì thế ta thường gọi là Trạng Trình. Năm Ất dậu, ngài phải bệnh, Mạc Hậu Hợp sai sứ đến thăm và hỏi việc hậu sự.

Ngài bảo rằng:

- Ngày sau nước có việc, ở xứ Cao Bình tuy nhỏ nhưng cũng có thể hưởng phúc được vài đời nữa.

Đến sau nhà Mạc mất nước, chạy lên Cao Bình, quả nhiên còn giữ được bốn đời rồi mới tuyệt.

Ngày 28 tháng một năm Ất Dậu, ngài mất, thọ 95 tuổi. Học trò gọi ngài là "Tuyết giang phu tử".

Ngài học tinh về thuật số, phàm các việc tai, tường họa, phúc cùng là ngày mưa, ngày nắng, việc gì cũng biết trước.

Có một người học trò tên là Bùi Sinh, ngài bảo người ấy về sau tất phú quí. Đến khi Bùi Sinh gần bảy mươi tuổi vẫn còn nghèo hèn, cho là ngài đoán số mình sai; ngài cười không nói gì. Một hôm ngài bảo Bùi Sinh mượn một chiếc thuyền đánh cá cho bơi ra bến Hồng Đàm ở bể Vạn Ninh, đợi đến giờ ấy… hễ gặp cái gì thu lấy đem về, chắc được thưởng to. Bùi Sinh tuân lời, quả nhiên gặp một bà cụ già, áo mũ chỉnh tề, đi thuyền bị bạt phong đến đấy.

Bùi Sinh đem về phụng dưỡng tử tế. Được vài hôm có ông tổng đốc Quảng Đông sai người sang nói với vua ta rằng: Thái phu nhân chơi bể bạt phong, xem thiên văn thì thấy ở phương Nam xin nhà vua vì nghĩa láng giềng cho kiếm giúp. Ngài sai Bùi Sinh đem bà cụ ấy dâng lên, vì thế được phong tước là Thao quận Công.

Năm Thuận bình thứ 8 nhà Lê (1556) vua Trung tôn mất, không có con, bấy giờ Trịnh Kiểm đang cầm quyền có bụng hồ nghi, không nghĩ ra thế nào. Hỏi Phùng Khắc Khoan cũng không biết thế nào cho phải, mới sai người lén ra Hải Dương để hỏi ngài, ngài chẳng nói gì chỉ ngoảnh lại bảo người đầy tớ.

- Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ.

Nói rồi, sai tiểu quét dọn đốt hương để ngài ra chơi chùa và bảo tiểu.

- Giữ chùa thờ phật thì ăn oản.

Đó là có ý khuyên Trịnh Kiểm tìm lấy dòng dõi nhà Lê mà lập lên, mà phải cứ giữ đạo làm tôi ăn mày phật thì mới hưởng phúc.

Sứ giả về nói với Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm hiểu ý, mới đón vua Anh Tôn lập lên, quả nhiên dựng lại được cơ đồ nhà Lê mà họ Trịnh cũng đời đời vinh hiển.

Khi ấy đức Dụ tổ triều Nguyễn ta (Đức Nguyễn Hoàng) đang có hiềm với Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm có ý muốn ám hại, đức Dụ tổ lo sợ, không biết làm thế nào để tránh khỏi nạn, mới sai người ra hỏi ngài. Bấy giờ ngài đang chống gậy chơi trong vườn cảnh. Trong vườn, có vài mươi ngọn núi non bộ, lại chồng đá làm một rặng núi ngang. Trên núi cây cối rườm rà, có đàn kiến đang bò trên tảng đá, ngài nhìn xem đàn kiến, rồi tủm tỉm cười nói:

- Một dãy núi Hoành Sơn (núi ngang) kia, có thể yên thân được muôn đời.

Người kia thấy nói vậy. Về nói với đức Dụ Tổ. Đức Dụ Tổ biết ý, mới xin vào trấn thủ trong xứ Thuận Quảng (trong ấy, có dãy núi Hoành Sơn), quả nhiên mỗi ngày một thịnh, mở ra cơ nghiệp Nguyễn triều.

Học trò ngài rất nhiều nhưng chỉ có Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khanh, Nguyễn Dữ, Trương thời Cử làm nên to mà có danh hơn cả. Phùng, Lương thâm thúy về nghề lý học, cùng làm danh thần lúc nhà Lê trung hưng.

Khi trước ông Phùng Khắc Khoan thuê nhà đến học ngài. Lúc học giỏi rồi, ngài đang đêm đến chơi ở nhà trọ, gõ cửa mà bảo rằng:

- Gà đã gáy rồi, sao không đứng dậy mà thổi cơm ăn, còn nằm mãi làm gì?

Lời ấy có ý giục ông Khắc Khoan vào Thanh Hóa giúp nhà Lê. Ông Khắc Khoan biết ý thế mới cùng Nguyễn Dữ vào giúp nhà Lê, làm đến công thần.

Ngài làm thơ phú rất nhiều, đến nay vẫn còn một tập thơ đề là "Bạch vân am thi tập" và một quyển sấm ký bây giờ vẫn gọi là "Sấm Trạng Trình".

(Theo Phan Kế Bính).

Chú thích:

(1) Ứng về sau nhà Lê khôi phục đuợc nước.

(2) Ứng về sau nhà Trịnh giữ quyền nhà Lê.

Mời các bạn đón đọc Các cụ Trạng Việt Nam của tác giả Phan Kế Bính.