Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Đơn Giản Và Thuần Khiết

Tác phẩm Đơn Giản Và Thuần Khiết này là tổng hợp của nhiều bài Pháp được giảng từ những năm 1954 đến 1977 của Upasika Kee Nanayon. Mỗi phần có thể là một bài giảng ở một thời điểm khác nhau, vì thế khi tập hợp lại, điều này tạo cho chúng ta cảm tưởng của sự lặp đi lặp lại nhiều ý tưởng. Đó có thể là lý do khiến cho một số độc giả thiếu kiên nhẫn khi theo dõi, riêng đối với những người sơ cơ thì điều đó lại là một ân huệ. Ngoài ra văn phong của Upasika Kee Nanayon rất giản dị, chân tình. Đôi khi chúng ta sẽ có cảm giác như đang nghe những lời nhắc nhở, dạy dỗ của một người thầy, người mẹ, dầu hơi nghiêm khắc, nhưng luôn tràn đầy tâm từ bi, muốn cho người nghe, người đọc phải tinh tấn thêm lên, gấp rút thêm lên trên con đường tu học của mình.

***

Upasika Kee Nanayon, còn được biết đến qua bút danh, K. Khao-suan-luang, là một vị nữ Pháp sư nổi tiếng nhất trong thế kỷ 20 ở Thái Lan. Sinh năm 1901, trong một gia đình thương nhân Trung Hoa ở Rajburi (một thành phố ở phía Tây Bangkok), bà là con cả trong gia đình năm chị em – hay tám chị em, nếu tính luôn cả những đứa con của mẹ kế. Mẹ bà là một Phật tử thuần thành, đã dạy cho bà những kiến thức cơ bản về các nghi lễ Phật giáo, như là tụng niệm hằng đêm và giữ gìn giới luật từ khi bà còn rất nhỏ. Lúc cuối đời bà đã kể lại, từ lúc sáu tuổi, bà đã cảm thấy đầy sợ hãi và ghê sợ như thế nào đối với những khốn khổ mà mẹ bà đã phải trải qua trong lúc mang thai và sinh ra một trong những người em của bà, đến nỗi khi nhìn thấy đứa trẻ mới sinh lần đầu tiên –“đang nằm yên ngủ, một sinh vật nhỏ tí, đỏ hỏn, với tóc đen, thật đen”- bà đã chạy trốn khỏi nhà suốt ba ngày. Kinh nghiệm này, cộng với những bức xúc mà bà hẳn đã cảm nhận khi cha mẹ bà chia tay nhau, có lẽ là lý do tiềm ẩn khiến bà, dầu còn rất trẻ, đã quyết định rằng bà sẽ không bao giờ chịu cúi đầu tuân theo những gì mà bà coi như là sự nô lệ trong hôn nhân.

Ở tuổi vị thành niên, bà dốc hết thời gian rảnh rỗi vào việc tìm hiểu Phật Pháp và hành thiền, chỉ làm việc đủ để kiếm tiền nuôi dưỡng cha già, bằng cách trông coi một cửa hàng nhỏ. Sự hành thiền của bà tiến bộ tốt, đến nỗi bà có thể dạy cha hành thiền với kết quả khả quan trong năm cuối đời ông. Sau khi cha mất, bà tiếp tục làm việc với suy nghĩ rằng bà sẽ để dành đủ tiền để giúp bà có thể sống quãng đời còn lại ở một nơi thanh vắng, và dốc hết tâm sức vào việc tu tập. Cô chú của bà, những người cũng rất ham thích việc hành thiền, có một ngôi nhà nhỏ gần một ngọn đồi có rừng, Khao Suan Luang -, ở ngoại thành của Rajburi, nơi bà thường đến tu tập – (Núi Công Viên Hoàng Gia, nơi đã tạo ra hứng khởi để bà chọn làm bút danh). Vào năm 1945, khi cuộc sống xáo trộn do Thế chiến thứ II gây ra đã bắt đầu trở lại bình thường, bà giao cửa hàng lại cho người em gái, để theo cô chú dọn về vùng núi, nơi mà cả ba người bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn hướng về thiền tập, như những Ưu-bà-tắc (upasaka) và Ưu-bà-di (upasika) –những đệ tử nam, nữ tại gia của Đức Phật. Từ một nhóm tu nhỏ, do họ tự lập với nhau trong một tu viện đã bị bỏ hoang, dần dần nó đã phát triển để trở thành một trung tâm tu tập của phụ nữ, và vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay.

Cuộc sống ở nơi tịnh tu này rất khó khăn, vì thực tế là trong những năm đầu tiên, ít có được sự hỗ trợ từ bên ngoài. Tuy nhiên, ngày nay dầu trung tâm đã được nhiều người biết đến, cơ ngơi đã được xây dựng khang trang, thì sự cần kiệm giống như xưa vẫn được duy trì vì những lợi ích của nó –làm giảm thiểu lòng tham, tự ái và những uế nhiễm tâm linh khác- cũng như vì sự an lạc mà nó mang đến khi làm giảm bớt bao lo âu trong tâm. Tất cả các phụ nữ tu tập ở trung tâm đều ăn chay và không sử dụng những chất kích thích như thuốc lá, trà, cà-phê và trầu cau. Hằng ngày, họ tụ họp lại để đọc kinh, hành thiền theo nhóm và trao đổi về các kinh nghiệm tu tập. Trong những năm khi sức khỏe của Upasika Kee vẫn còn tốt, bà tổ chức những buổi họp mặt đặc biệt, qua đó các thành viên sẽ báo cáo về sự thực hành của họ, sau đó bà sẽ nói một bài pháp về những vấn đề quan trọng mà họ đã nêu lên trong báo cáo. Phần lớn các bài pháp được ghi lại trong sách này có xuất xứ từ những buổi họp mặt như thế.

Trong những năm đầu của trung tâm, các nhóm nhỏ như bạn bè, thân quyến khi có dịp sẽ thăm viếng để hỗ trợ và để được lắng nghe các bài Pháp của Upasika Kee. Dần dần khi các bài Pháp cũng như sự tu tập của bà được đánh giá cao, được nhiều người biết đến, thì nhiều đoàn Phật tử khác đã đến viếng thăm và có nhiều phụ nữ gia nhập cộng đồng đó hơn. Mặc dầu rất nhiều các đệ tử của bà được làm tu nữ thọ tám giới, trang phục trong y trắng, chính bản thân bà vẫn duy trì địa vị của một người nữ cư sĩ thực hành giữ tám giới suốt cuộc đời.

Khi máy ghi âm (tape-recording) xuất hiện ở Thái Lan vào giữa những năm 1950, bạn bè bắt đầu ghi âm lại những bài giảng Pháp của bà, và vào năm 1956, một số bài giảng của bà được đem in ấn tống. Đến giữa 1960, luồng văn hóa Phật giáo miễn phí từ Khao Suan Luang –gồm các bài thơ cũng như bài Pháp của bà- đã tuôn tràn như thác lũ. Điều này càng lôi cuốn thêm nhiều người đến với trung tâm của bà và bà được đánh giá là một trong những vị giảng sư lỗi lạc nhất ở Thái Lan, không kể là nam hay nữ.

Upasika Kee là người tự học. Mặc dầu bà đã tiếp nhận được các phương thức hành thiền căn bản trong những lần thường xuyên đến viếng các tu viện khi còn trẻ, nhưng bà thực hành phần lớn là tự bản thân chứ không học chính thức với một vị thiền sư nào. Hầu hết những lời giảng của bà trích ra từ các kinh điển như -Tam tạng kinh, các tác phẩm của các vị thầy đương thời- và từ các trải nghiệm cam go, không ngừng nghỉ của bà.

Trong những năm cuối đời, bà bị cườm mắt, dần đưa đến việc bị mất thị giác, nhưng bà vẫn duy trì một thời khóa biểu hành thiền miên mật và vẫn tiếp đón những vị khách nào muốn đến để tìm hiểu Phật Pháp. Bà đã ra đi một cách lặng lẽ vào năm 1978, sau khi đã giao trung tâm lại cho một Hội đồng mà bà đã chọn lựa trong các thành viên. Em gái của bà, Upasika Wan, người cho đến thời điểm đó, đã giữ một vai trò quan trọng trong việc hộ Pháp, và cũng là người điều hành trung tâm, đã gia nhập Hội đồng này chỉ vài tháng sau khi Upasika Kee viên tịch. Upasika Wan không lâu sau đó đã trở thành là người lãnh đạo của trung tâm, một vị trí mà bà đã giữ cho đến khi bản thân bà cũng ra đi vào năm 1993. Giờ thì một lần nữa, trung tâm lại được điều hành bởi một Hội đồng và đã phát triển để có thể thâu nhận đến sáu mươi thành viên.

Tỳ Kheo Thanissaro

Metta Forest Monastery

Valley Center, California

---o0o---

Lời Người Dịch

Chúng con kính xin đảnh lễ Đức Thế Tôn, người luôn là ánh sáng cho chúng sanh soi rọi. Đảnh lễ nữ thiền sư Kee Nanayon, người đã để lại những bài Pháp rất giản dị mà cao siêu, hướng dẫn chúng con đi đúng theo Chánh Pháp của Đức Phật.

Chúng tôi xin hoan hỷ giới thiệu một tác phẩm của nữ thiền sư người Thái Lan: Kee Nanayon. Tác phẩm này là tổng hợp của nhiều bài Pháp được giảng từ những năm 1954 đến 1977 của Bà. Sách nguyên gốc không chia thành chương, chỉ có sáu tựa lớn, dưới một số tựa lớn có những tiểu tựa. (Trong dịch phẩm này, chúng tôi đánh số chương để độc giả dễ theo dõi). Mỗi tiểu tựa có thể là một bài giảng ở một thời điểm khác nhau, vì thế khi tập hợp lại, điều này tạo cho chúng ta cảm tưởng của sự lặp đi lặp lại nhiều ý tưởng. Điều này có thể khiến cho một số độc giả thiếu kiên nhẫn khi theo dõi, riêng đối với chúng tôi, những người sơ cơ thì điều đó lại là một ân huệ. Ngoài ra văn phong của Upasika Kee Nanayon rất giản dị, chân tình. Đôi khi chúng tôi có cảm giác như đang nghe những lời nhắc nhở, dạy dỗ của một người thầy, người mẹ, dầu hơi nghiêm khắc, nhưng luôn tràn đầy tâm từ bi, muốn cho người nghe, người đọc phải tinh tấn thêm lên, gấp rút thêm lên trên con đường tu học của mình. Những lời dạy khiến cho bản thân người dịch chúng tôi cũng thầm xấu hổ cho sự dễ duôi của bản thân mình.

Mỗi lần hoàn thành một dịch phẩm, chúng tôi đều cảm thấy hàm ân rất nhiều. Trước tiên là do duyên lành chúng tôi có được những phương tiện như sức khỏe, thời gian, sự kiên trì để hoàn thành dịch phẩm. Xin chân thành sám hối với giác linh của Upasika Kee Nanayon, vì sự hiểu biết hạn hẹp của chúng tôi về Pháp hành cũng như Pháp học, nên chắc chắn sẽ khiến dịch phẩm này còn rất nhiều thiếu sót và sai lầm. Rất mong nhận được sự chỉ giáo, hướng dẫn của các bậc tôn sư, quý học giả cùng quý đạo hữu gần xa.

Lần này ngoài Mỹ Thanh, người vẫn thường xuyên góp sức trong việc dịch thuật với chúng tôi, còn có thêm đạo hữu Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam, một đạo hữu mà chúng tôi chưa từng được gặp mặt, nhưng qua duyên lành được quen biết, đã hoan hỷ góp sức với chúng tôi. Xin chân thành cảm ơn Mỹ Thanh và đạo hữu Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam.

Cầu mong phước báu này hãy là một trợ duyên cho sự tu tập của chúng tôi. Cầu mong tất cả chúng sanh được an vui hạnh phúc. Cầu mong Chánh Pháp được trường tồn.

Diệu Liên Lý Thu Linh

Tháng 5, 2010

---o0o---

Lời Dẫn Nhập

Vào năm 1965, không lâu sau khi chú của bà mất, Upasika Kee viết một bài thơ dài về 20 năm đầu tiên ở Khao Suan Luang. Dưới đây là một phần của bài thơ được viết lại dưới dạng văn xuôi.

Vào ngày 26 tháng 6 năm 1945 ba người chúng tôi –cô, chú và tôi- đầu tiên đến ở trong một giảng đường cũ kỹ trên Khao Suan Luang, chú Plien Raksae lo việc sửa chữa nơi này. Chú từng là một nông dân sống ở phía bên kia đồi, nhưng chú đã bỏ lại mọi lo toan chuyện gia đình để lo tu hành.

Nơi này là một tu viện cũ do vài vị tăng lập nên, nhưng sau đó đã bỏ hoang nhiều năm nay. Kế bên giảng đường có một hồ nước hình bán nguyệt bằng xi măng dùng để hứng nước mưa từ mái nhà chảy xuống –đủ để dùng cả năm. Những thiền thất cũ ở xa xa chạy dọc theo sườn đồi dẫn lên giảng đường. Các cư sĩ trong vùng đã đào một cái hồ dưới chân đồi để chứa nước mưa, nhưng vào mùa khô, hồ không có nước. Một đường ray xe bò cũ từ ở mép hồ đánh vòng lên khu đồi, khoanh vùng một diện tích khoảng 12 mẫu, nơi chúng tôi quyết định sẽ làm nơi tu tập.

Khi chúng tôi mới đến, nơi này phủ đầy bụi rậm và cỏ dại, vì thế chúng tôi phải dọn sạch những con đường xuyên qua rừng, chạy lên đồi đến một cái hang dưới mỏm núi -một cái hang mà chúng tôi gọi là Uttama Santi - Hang Hòa Bình Tột Đỉnh. Dọn dẹp khu rừng ngày này qua ngày khác, thật là vui, và không lâu sau đó có thêm một phụ nữ nữa đến nhập bọn với chúng tôi. Trong những ngày đó không có khách vãng lai, vì thế nơi này rất yên tĩnh.

Khi mới đến, tôi rất sợ ma và sợ người, nhưng tôi rất quyết tâm, và niềm tin của tôi dựa vào nghiệp quả (kamma) dần dần xua tan những lo âu và sợ hãi của tôi. Trước đó tôi chưa từng sống trong rừng. Tôi không có mục đích gì để sống ở đó, hơn nữa tôi nghĩ sống ở phố thị vẫn tốt hơn. Tôi có thể mở một cửa hàng và kiếm đủ tiền để sống suốt đời. Tuy nhiên khi đến khu rừng này, nơi cuộc sống rất giản đơn, tôi dần cảm thấy nhẹ nhàng và tự do. Được nhìn thấy thiên nhiên chung quanh khiến tôi muốn khám phá nội tâm mình.

Không xung đột, không suy tư,

tâm tĩnh lặng,

sẽ nhìn thấy nhân quả

tan đi vào Không.

Không bám víu, buông xả:

Biết rằng đó là con đường

để giải tỏa mọi ưu tư.

Về thực phẩm, chúng tôi sống nhờ vào những buội măng tươi ngon mọc trong khóm tre trên đỉnh đồi. Các loại trái đắng và dâu sum suê trong mùa mưa là dược thực của chúng tôi. Về chén đĩa, chúng tôi sử dụng bất cứ thứ gì mà chúng tôi có thể tìm được trong rừng. Thí dụ vỏ dừa sẽ được làm thành những chiếc tô tuyệt vời, vì bạn không phải lo việc chúng bị vỡ. Chúng tôi vá chằng vá chịt mấy bộ quần áo mang theo, và ngủ trên những tấm đệm và gối gỗ cũ tìm thấy trong giảng đường. Tôi cũng có một gối gỗ khác để nghỉ ngơi trong hang riêng của mình. Thiền sinh rất thích các gối gỗ này, vì nếu dùng các gối mềm, ta phải lo cất giữ chúng thật kỹ càng.

Đủ loại thú vật sống quanh đồi: mèo, chồn hoang, thỏ, cắc ké, thằn lằn, rắn…. Bọn khỉ thỉnh thoảng cũng đến phá phách chúng tôi, bẻ trái trong vườn. Tiếng kêu của những con chim cú và quạ trùm phủ không gian. Từng đàn dơi sống trong hang, ban đêm bay ra và chỉ trở về trước khi hừng đông. Kiến và sâu bọ không bay được, nên bò đầy mặt đất, với vẻ chăm chỉ, cần mẫn –nhưng đi về đâu? Và chúng mang chở thứ gì mà phối hợp với nhau quá nhịp nhàng?

Dọn đến nơi này, chúng tôi đã cắt bỏ tất cả những ký ức về quá khứ, và chỉ nghĩ đến việc làm thế nào để tiến bộ hơn trong việc giải thoát khỏi khổ đau. Khách vãng lai đến rồi đi. Nhưng cũng có nhiều người đến ở với chúng tôi, với ý định là muốn học các phương cách để rèn luyện tâm, và làm giảm bớt những nỗi khổ đau của họ. Chưa bao giờ được rèn luyện để làm vị giáo thọ, nhưng giờ tôi lại thường bắt gặp mình thảo luận về việc tu tập và các phương tiện thiện xảo để quán sát ngũ uẩn. Tất cả những người đến đây tu tập đều đã có chút ít kinh nghiệm nơi chốn thiền môn, vì thế họ biết khá nhiều Pháp, và chấp nhận tu tập, thực hành với một thái độ sáng suốt, cởi mở. Chúng tôi thường tụ họp lại để thảo luận về nhiều phương cách có thể được sử dụng trong việc huấn luyện tâm để khám phá ra thân và tâm (danh sắc) một cách hữu hiệu.

Giờ, sau 20 năm, cánh rừng này không còn hoang dã nữa, và nơi chốn này đã được tu sửa về nhiều mặt để thích hợp với việc tu tập hầu thoát khỏi vòng khổ đau và phiền não. Nếu chúng ta tiếp tục tiến bước trên đạo lộ, theo gương của các vị thánh đệ tử –với tâm chân chánh, và kham nhẫn trong nỗ lực của mình để khám phá ra ngũ uẩn một cách trí tuệ –chúng ta có thể chắc chắn rằng mình sẽ tìm được kết quả mong muốn.

Hãy trân quý mùi hương rừng

Cho đến khi đất trời tịch diệt,

Khu rừng của Công Viên Núi Hoàng gia,

vẫn mãi là khu vườn của tĩnh lặng,

nơi Pháp mầu vang dội:

Niết Bàn –nơi không còn giới hạn-

là thiên nhiên trống vắng

mọi ưu phiền.

Upasika Kee Nanayon

Mời các bạn đón đọc Đơn Giản Và Thuần Khiết của tác giả Upasika Kee Nanayon & Diệu Liên Lý Thu Linh (dịch).