Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Sử Ký III. Thế Gia

QUYỂN 31NGÔ THÁI BÁ THẾ GIA

Ngô Thái bá và em trai là Trọng Ung, đều là con của Chu Thái vương và là anh của vua Quý Lịch. Quý Lịch hiền năng, lại có người con thánh minh tên là Xương, Thái vương muốn lập Quý Lịch để truyền đến Xương, thế nên hai anh em Thái bá, Trọng Ung bèn chạy trốn đến đất Kinh Man*, xăm mình cắt tóc, tỏ rằng mình không thể được trọng dụng, nhằm tránh Quý Lịch. Quý Lịch quả nhiên được lập, đó là vua Quý, còn Xương [sau] là Văn vương. Thái bá chạy trốn đến Kinh Man, tự lấy hiệu là Câu Ngô. [Người] Kinh Man cho ông là người có nghĩa, bèn theo rồi quy thuận đến hơn nghìn nhà, lập làm Ngô Thái bá.

Thái bá chết, không có con, người em trai là Trọng Ung lên thay, đó là Ngô Trọng Ung. Trọng Ung chết, con là Quý Giản lên thay. Quý Giản chết, con là Thúc Đạt lên thay. Thúc Đạt chết, con là Chu Chương lên thay. Bấy giờ Chu Vũ vương diệt xong nhà Ân, cho tìm hậu duệ của Thái bá và Trọng Ung, tìm được Chu Chương. Chu Chương đã làm vua nước Ngô, [Vũ vương] nhân đó phong cho đất Ngô. Bèn lấy vùng nguyên là Hạ Khư* ở phía bắc nước Chu phong cho em của Chu Chương là Ngu Trọng, đó là Ngu Trọng*, được liệt vào hàng chư hầu.

Chu Chương chết, con là Hùng Toại lên thay. Hùng Toại chết, con là Ca Tướng lên thay. Ca Tướng chết, con là Cương* Cưu Di lên thay. Cương Cưu Di chết, con là Dư Kiều Nghi Ngô lên thay. Dư Kiều Nghi Ngô chết, con là Kha Lư lên thay. Kha Lư chết, con là Chu Dao* lên thay. Chu Dao chết, con là Khuất Vũ lên thay. Khuất Vũ chết, con là Di Ngô lên thay. Di Ngô chết, con là Cầm Xử* lên thay. Cầm Xử chết, con là Chuyển lên thay. Chuyển chết, con là Phả Cao lên thay. Phả Cao chết, con là Câu Ty lên thay. Khi ấy, Tấn Hiến công diệt Ngu công ở phía bắc nước Chu để mở đường cho nước Tấn đánh nước Quốc. Câu Ty chết, con là Khứ Tề lên thay. Khứ Tề chết, con là Thọ Mông lên thay. Thọ Mông lên ngôi thì nước Ngô bắt đầu lớn mạnh dần, xưng vương.

Từ thuở Thái bá dựng nước Ngô, trải năm đời thì đến khi [Chu] Vũ vương lật đổ nhà Ân, hậu duệ được phong hai nơi: một là nước Ngu, nằm ở Trung nguyên, một là nước Ngô, nằm ở vùng man di. [Được] mười hai đời thì nước Tấn diệt nước Ngu ở Trung nguyên. Nước Ngu ở Trung nguyên bị diệt được hai đời thì nước Ngô ở vùng man di hứng khởi. Tính ra từ Thái bá đến Thọ Mông gồm mười chín đời.

Vua Thọ Mông năm thứ hai, vì oán tướng nước Sở là Tử Phản nên viên đại phu đào tẩu của Sở là Thân công Vu Thần chạy trốn sang nước Tấn, từ Tấn đi sứ sang Ngô, dạy người Ngô phép dùng binh và chiến xa, sai con ở lại Ngô làm chức Hành nhân*, từ đó Ngô mới bắt đầu qua lại với Trung nguyên. Ngô đánh Sở. Năm thứ mười sáu, Sở Cung vương đánh nước Ngô, đến tận Hành Sơn.

Năm thứ hai mươi lăm, vua Thọ Mông chết. Thọ Mông có bốn người con trai, con trưởng là Chư Phàn, kế là Dư Tế, tiếp là Dư Muội, út là Quý Trát. Quý Trát là người hiền năng, nhưng khi Thọ Mông định lập [Quý Trát] làm vua, Quý Trát lại thoái thác, thế là bèn lập con trưởng là Chư Phàn, để nắm quyền hành xử lý mọi việc trong nước.

Vua Chư Phàn năm thứ nhất, Chư Phàn đã đoạn tang, liền nhường ngôi cho Quý Trát. Quý Trát từ tạ rằng: “Tào Tuyên công chết đi, chư hầu và người nước Tào đều cho rằng Tào quân bất nghĩa, định lập Tử Tang*, Tử Tang rơi nước Tào, để thành toàn cho Tào quân, người Quân tử* cho là: 'Biết thủ tiết đấy'. Đại huynh nối ngôi theo lễ, ai dám mạo phạm! Việc nhận ngôi vua, không phải khí tiết của Trát. Trát tuy bất tài, cũng nguyện noi theo tiết tháo của Tử Tang.” Người Ngô cố lập Quý Trát, Quý Trát bỏ nhà đi cày ruộng, người ta mới chịu thôi. Mùa thu, Ngô đánh Sở, bị Sở đánh bại. Năm thứ tư, Tấn Bình công mới lên ngôi.

Năm thứ mười ba, vua Chư Phàn chết. Có di mệnh truyền ngôi cho em là Dư Sái, muốn truyền lần lượt, nhất định truyền quốc đến Quý Trát mới thôi, để thuận theo ý nguyện của tiên vương Thọ Mông, hơn nữa để biểu dương khí tiết của Quý Trát, các anh em đều muốn truyền quốc cho, nên mới theo cách này để dần dần truyền đến [Quý Trát]. Quý Trát được phong ở Diên Lăng, vì vậy hiệu là Diên Lăng Quý tử. Vua Dư Sái năm thứ ba, Tướng quốc nước Tề là Khánh Phong mắc tội, từ Tề chạy sang Ngô. Nước Ngô đem huyện Chu Phương ban cho Khánh Phong làm ấp hưởng lộc, gả con gái cho, [khiến Khánh Phong] giàu có hơn khi ở nước Tề.

Năm thứ tư, nước Ngô sai Quý Trát sang thông hiếu với nước Lỗ, được mời thưởng thức âm nhạc nhà Chu. Sau khi nghe hát “Chu nam”, “Thiệu nam”, [Quý Trát] nói: “Đẹp đẽ thay, bắt đầu gây dựng nền móng, còn chưa hoàn thiện, nhưng dân vất vả mà không oán thán.” Hát “Bội phong”, “Dung phong”, “Vệ phong”, [nghe xong, Quý Trát] nói: “Đẹp đẽ thay, sâu xa thay, lo âu mà không khốn quẫn. Ta nghe đức hạnh của Vệ Khang thúc, Vũ công cũng giống như thế, đây là Vệ Phong ư?” Hát “Vượng phong”, [nghe xong, Quý Trát] nói: “Đẹp đẽ thay, suy tư mà không sợ sệt, là nhạc sau hồi nhà Chu rời sang đông ư?” Hát “Trịnh phong”, [nghe xong, Quý Trát] nói: “Quá ư nhỏ nhặt, dân không chịu thấu, là nước sẽ mất đầu tiên ư?” Hát “Tề phong”, [nghe xong, Quý Trát] nói: “Đẹp đẽ thay, sâu thẳm mênh mông thay, thực là khuôn phép của nước lớn. Người là mẫu mực của miền Đông Hải, chính là Thái công đó chăng? Vận nước chưa thể lường hết được.” Hát “Bân phong”*, [nghe xong, QuýTrát] nói: “Đẹp đẽ thay, thảnh thơi thay, vui mà không dâm, là nhạc lúc Chu công đông chinh chăng?” Hát “Tần phong”, [nghe xong, Quý Trát] nói: “Đây gọi là Hạ thanh*. Ôi, đã là Hạ thì to lớn, to lớn đến cực độ vậy, đó là âm nhạc cũ của nhà Chu chăng?” Hát “Ngụy phong”, [nghe xong, Quý Trát] nói: “Đẹp đẽ thay, uyển chuyển thay, rộng rãi mà biết ước thúc, khiêm hòa mà vẫn giản đơn, nhờ đức hạnh bổ trợ để thi hành, đó hẳn là bậc minh chủ vậy.” Hát “Đường phong”, [nghe xong, Quý Trát] nói: “Nghĩ sâu xa thay, còn di phong của họ Đào Đường chăng? Bằng không sao suy tư sâu xa tới vậy? Phi hậu duệ của bậc có đức lớn, ai được như thế?” Hát “Trần phong”, [nghe xong, Quý Trát] nói: “Nước không vua, sao có thể lâu dài được đây?” Từ “Cối phong” trở về sau, Quý Trát không bình luận nữa. Hát “Tiểu nhã”, [nghe xong, Quý Trát] nói: “Đẹp đẽ thay, suy tư mà chẳng hai lòng, oán hận mà chẳng nói ra, là đức nhà Chu nhỏ chăng? Do hãy còn cái tình dân cũ của tiên vương.” Hát “Đại nhã”, [nghe xong, Quý Trát] nói: “Rộng lớn thay, nhuần nhị thay, ngữ khí uyển chuyển mà vẫn cương chính, là đức của Văn lương chăng?” Hát “Tụng”, [nghe xong, Quý Trát] nói: “Cực điểm vậy thay, thẳng thắn mà không ngạo mạn, uyển chuyển mà không khuất phục, thân cận mà không bức bách, xa xôi mà không lỏng lẻo, biến đổi mà không dâm loạn, trăn trở mà không mệt mỏi, đau thương mà không ưu sầu, vui vẻ mà không hoang đàng, dùng mà không thiếu, rộng mà không lộ, ra ơn mà không phí phạm, lấy mà không tham nhiều, ngừng nghỉ mà không trì trệ, vận hành mà không trôi tuột. Lời của năm thanh hài hòa, khí của tám phương bình ổn, tiết tấu có chừng mực, phách nhịp có quy tắc, giống như nơi chứa đức tốt vậy.” Xem múa “Tượng sóc”, “Nam thược”, [Quý Trát] nói: “Đẹp đẽ thay, nhưng vẫn chứa niềm hoài hận.” Xem múa “Đại vũ”, [Quý Trát] nói: “Đẹp đẽ thay, sự hưng thịnh của nhà Chu đại để giống thế chăng?” Xem múa “Thiều hộ”, [Quý Trát] nói: “Thánh nhân lớn lao thay, nhưng dường có chỗ còn thắc thỏm, làm thánh nhân khó thế đấy!” Xem múa “Đại Hạ”, Quý Trát nói: “Đẹp đẽ thay, chăm chỉ mà không khoe khoang, không phải Vũ thì ai làm được thế?” Xem múa “Chiêu sóc”, Quý Trát] nói “Đức đến cực điểm thay, lớn lao thay, như trời cao, không gì không che phủ, như đất dày, không gì không gánh chở, dẫu thêm đức tốt cũng không biết thêm vào đâu. Xem thế là đủ, dẫu thêm nhạc khác, ta cũng chẳng dám xem nữa.”*

[Quý Trát] rời nước Lỗ, bèn đi sứ sang nước Tề. [Quý Trát] nói với Yến Bình Trọng* rằng: “Ngài mau giao nộp ấp phong và quyền chức. Không ấp không quyền, mới mong thoát nạn. Quyền chính nước Tề sắp quy về một mối; chưa về một mối, họa nạn chưa dứt vậy.”Vì thế, Yến tử nhờ Trần Hoàn tử để giao lại ấp phong và quyền tước, nhờ thế thoát được nạn Loan Cao*.

[Quý Trát] rời nước Tề, sang sứ nước Trịnh. [Quý Trát] gặp Tử Sản, như gặp lại bạn cũ. Bảo Tử Sản rằng: “Người cầm quyền nước Trịnh xa hoa, họa nạn sắp đến đấy, chính sự nhất định về tay ngài. Ngài nắm quyền chính, phải thận trọng tuân theo lễ pháp. Bằng không nước Trịnh sẽ suy vong.” Rời nước Trịnh, Quý Trát đến nước Vệ. [Quý Trát] bảo Cừ Viện, Sử Cẩu, Sử Thu, công tử Kinh, Công Thúc Phát, công tử Triều rằng: “Nước Vệ nhiều quân tử, chưa có gì đáng lo.”

[Quý Trát] từ nước Vệ sang nước Tấn, định vào ở trọ trong ấp Thích, chợt nghe thấy tiếng chuông, bèn nói: “Quái lạ! Ta từng nghe, khéo biện bác mà không có đức hạnh, nhất định phải chịu hình phạt. Phu tử (Tôn Văn tử) đắc tội với quốc quân vậy mà vẫn còn ở đây, sợ hãi chưa xiết, mà còn có thể làm nhạc được sao? Phu tử ở ấp Thích khác nào tổ én trên mành* vậy. Quốc quân (Vệ Hiến công) còn quàn ở đó, mà có thể làm nhạc được chăng?” Đoạn bỏ đi. Văn tử nghe được lời ấy, sau này cả đời không nghe tiếng đàn cầm đàn sắt nữa.

[Quý Trát] đến nước Tấn, nói với Triệu Văn tử, Hàn Tuyên tử, Nguỵ Hiến tử rằng: “Vận mệnh nước Tấn sẽ tập trung trong tay ba nhà đấy!” Sắp sửa đi thì nói với Thúc Hướng rằng: “Ngài hãy cố gắng! Nhà vua xa xỉ mà lại nhiều bề tôi giỏi, các đại phu đều giàu có [ắt ban bố ân huệ sâu dày], cho nên chính sự sắp về tay ba nhà. Ngài là người ngay thẳng, ắt phải tự nghĩ cách mà tránh nạn.”

Lúc Quý Trát mới đi sứ, lên phía bắc qua chỗ Từ quân. Từ quân thích kiếm của Quý Trát, nhưng chưa dám mở lời. Quý Trát trong lòng hiểu ý, song vì còn đi sứ nước lớn nên chưa đem tặng. Khi trở về đến nước Từ, Từ quân đã chết, thế là bèn cởi kiếm báu buộc lên cây ở mộ Từ quân rồi mới đi. Tùy tòng hỏi: “Từ quân đã chết, ngài còn để lại tặng ai?” Quý tử đáp: “Không phải thế. Trước đây, ta đã thầm hứa sẽ tặng kiếm, há vì ông ấy đã mất mà làm trái lòng mình sao?”

Năm thứ bảy, công tử nước Sở là Vi giết vua nước mình là Giáp Ngao để tự lập làm vua, đó là Linh vương. Năm thứ mười, Sở Linh vương hội chư hầu để vây đánh đất Chu Phương của nước Ngô, nhằm giết Khánh Phong nước Tề. Nước Ngô cũng vây đánh nước Sở, đoạt ba ấp rồi rút về. Năm thứ mười một, nước Sở tiến đánh nước Ngô, đến tận Vu Lâu. Năm thứ mười hai, nước Sở lại đến đánh, đóng quân ở Càn Khê, quân Sở thua chạy.

Năm thứ mười bảy, vua Dư Sái chết, em là Dư Muội lên thay. Vua Dư Muội năm thứ hai, công tử nước Sở là Khí Tật giết vua nước mình là Linh vương để lên thay.

Năm thứ tư, vua Dư Muội chết, muốn truyền ngôi cho em là Quý Trát. Quý Trát từ chối, rồi bỏ trốn. Vì thế, người Ngô nói: “Tiên vương đã có di mệnh, anh mất thời em lên thay, ắt truyền đến Quý tử. Nay Quý tử trốn ngôi, thì vua Dư Muội là người cuối cùng trong các anh em được lập. Nay [vua Dư Muội] mất đi, lập con ngài lên thay.” Bèn lập con của vua Dư Muội là Liêu lên làm vương.

Vương Liêu năm thứ hai, công tử Quang thảo phạt nước Sở, bị thua, còn làm mất chiến thuyền của tiên vương. Quang sợ, đánh úp nước Sở, đoạt lại được chiến thuyền của tiên vương rồi về.

Năm thứ năm, bề tôi bỏ trốn của nước Sở là Ngũ Tử Tư chạy đến [nước Ngô], công tử Quang đối đãi như khách. Công tử Quang là con vua Chư Phàn. [Quang] luôn cho rằng cha mình có ba người anh em, [ngôi báu] đáng lẽ được truyền đến Quý tử. Quý tử đã không nhận ngôi báu, thì cha của Quang là người đầu tiên được lập. Đã không truyền ngôi đến Quý tử thì đáng lý Quang phải được lập. [Quang] liền ngầm chiêu nạp hiền sĩ, muốn tập kích Ngô vương Liêu.

Năm thứ tám, nước Ngô sai công tử Quang thảo phạt nước Sở, đánh bại quân Sở, đón mẹ của Thái tử Kiến trước đây từ Cư Sào trở về. Thừa cơ bắc phạt, đánh bại quân đội nước Trần và nước Sái. Năm thứ chín, công tử Quang thảo phạt nước Sở, hạ được Cư Sào, Chung Ly. Hồi trước, có xử nữ tộc Ty Lương thị ở biên ấp nước Sở tranh lá dâu với người con gái ở biên ấp nước Ngô, dẫn đến hai nhà nổi giận rồi đánh giết nhau, quan trưởng biên ấp hai nước hay tin cũng tức giận đánh nhau, biên ấp nước Ngô bị diệt. Ngô vương nổi giận, nên mới phạt Sở, chiếm hai thành ấp* rồi về.

Hồi Ngũ Tử Tư mới chạy sang nước Ngô, thuyết phục Ngô vương Liêu về mối lợi khi thảo phạt nước Sở. Công tử Quang bảo: “Cha và anh của Tư bị Sở giết, nên muốn báo thù cho họ mà thôi, chưa thấy lợi gì cả.” Vì vậy, Ngũ Viên biết Quang có chí khác (muốn tiếm ngôi), bèn tìm dũng sĩ là Chuyên Chư, ra mắt Quang. Quang mừng rỡ, bèn đối đãi với Ngũ Tử Tư như khách. Tử Tư lui về cày ruộng ở nơi thôn dã, để đợi việc Chuyên Chư [hành thích Ngô vương Liêu thành công].

Mùa đông năm thứ mười hai, Sở Bình vương chết. Mùa xuân năm thứ mười ba, nước Ngô muốn nhân lúc nước Sở có tang sang đánh, liền sai công tử Cái Dư, Chúc Dung đem quân bao vây ấp Lục, ấp Tiềm nước Sở. Phái Quý Trát sang Tấn, để quan sát động tĩnh của chư hầu. Nước Sở cất quân chặn phía sau quân Ngô, quân Ngô không trở về được. Thế là, công tử Quang nước Ngô nói: “Thời cơ [hành thích Ngô vương] này không thể bỏ lỡ.” Rồi nói với Chuyên Chư rằng: “Không tìm làm sao có được! Ta mới thực là người thừa kế vương vị, đáng lý phải được lên ngôi, ta muốn đạt được điều đó. Quý tử dẫu có trở về cũng không phế ta đâu.” Chuyên Chư đáp: “Ngô vương Liêu thì có thể giết được. Mẹ già con thơ*, còn hai công tử thì đem quân vây đánh Sở, bị Sở cắt đứt đường về. Nay, nước Ngô bên ngoài bị Sở vây khốn, bên trong không có bề tôi cương trực, thì sao làm gì được ta chứ.” Quang đáp: “Mạng sống của ta cũng chính là mạng sống của ông vậy.” Ngày Bính Tý tháng Tư, Quang giấu giáp sĩ ở dưới hầm, rồi mời Ngô vương Liêu đến dự yến tiệc. Ngô vương Liêu sai binh sĩ đứng dàn trên đường, từ vương cung đến tận nhà Quang, các chỗ như cổng, thềm, cửa, chỗ ngồi đều có thân tín của Ngô vương Liêu, ai nấy đều cầm kiếm sắc. Công tử Quang vờ đau chân, đi xuống dưới hầm, rồi sai Chuyên Chư giấu chảy thủ vào bụng cá nướng rồi dâng món ăn. [Sau đó Chuyên Chư] tay nắm chủy thủ đâm Ngô vương Liêu, [tuy Chuyên Chư cũng bị] đâm vào bụng, nhưng vẫn giết được Ngô vương Liêu. Rốt cuộc công tử Quang thay thế rồi lên ngôi vương, đó là Ngô vương Hạp Lư. Hạp Lư liền cho con của Chuyên Chư làm chức khanh.

Quý tử về đến, nói rằng: “Nếu việc tế tự tiên quân không bị bỏ phế, ngôi chúa của dân chúng không bị bỏ trống, [thì ai] thờ phụng đàn xã đàn tắc, người đó chính là quốc quân của ta vậy. Ta dám oán ai đây? Xót người đã mất, thờ người còn sống, đặng đợi mệnh trời. Ta không dấy loạn, ai lên ngôi thì theo, đó là đạo lý của các bậc tiền nhân vậy.” Liền hồi báo việc đi sứ, khóc trước mộ Liêu, trở về giữ chức đợi lệnh [Quang]. Công tử nước Ngô là Chúc Dung, Cái Dư, hai người cầm quân bị người Sở bao vây, nghe tin công tử Quang giết Ngô vương Liêu để tự lập, liền đem quân hàng Sở, nước Sở phong cho ở đất Thư.

Ngô vương Hạp Lư năm thứ nhất, cất nhắc Ngũ Tử Tư làm Hành nhân để cùng mưu tính việc nước. Nước Sở giết Bá Châu Lê, cháu nội [Bá Châu Lê] là Bá Phỉ chạy trốn sang nước Ngô, Ngô vương phong làm đại phu.

Năm thứ ba, Ngô vương Hạp Lư cùng Tử Tư, Bá Phỉ đem quân chinh phạt nước Sở, hạ được đất Thư, giết hại tướng vốn là hai công tử nước Ngô trốn sang. Quang mưu đánh vào đất Dĩnh, Tướng quân Tôn Vũ nói: “Dân còn vất vả, chưa thể đánh được, hãy đợi thêm đã.” Năm thứ tư, chinh phạt nước Sở, chiếm được ấp Lục và ấp Tiềm. Năm thứ năm, chinh phạt nước Việt, nước Việt thua trận. Năm thứ sáu, nước Sở sai Tử Thường, Nang Ngõa chinh phạt nước Ngô. Đón đánh quân Sở, đại phá quân Sở ở Dự Chương, chiếm được Cư Sào của nước Sở rồi rút về.

Năm thứ chín, Ngô vương Hạp Lư thỉnh triệu Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ đến hỏi rằng: “Trước đây, các ông bảo chưa thể tiến đánh vào đất Dĩnh, nay thì thế nào?” Hai người đáp rằng: “Tướng nước Sở là Tử Thường tham lam, mà nước Đường, nước Sái đều oán ông ta. Nếu nhà vua nhất định muốn đánh lớn, tất phải được nước Đường, nước Sái ủng hộ mới được.” Hạp Lư nghe theo, đem hết quân binh, cùng nước đường, nước Sái tiến sang phía Tây chinh phạt nước Sở, kéo đến Hán Thủy. Nước Sở cũng phát quân chống cự quân Ngô, bày trận hai bên bờ sông. Em trai của Ngô vương Hạp Lư là Phù Khái muốn đánh, Hạp Lư không cho. Phù Khái nói: “Đại vương đã giao quân cho thần, việc quân lấy lại làm đầu, còn đợi gì nữa?” Bèn đem năm nghìn quân của mình đánh úp quân Sở, quân Sở đại bại, rút chạy. Thế là Ngô vương bèn tung quân truy kích. Đến khi tới đất Dĩnh, thì năm lần đánh, Sở bại cả năm lần. Sở Chiêu vương trốn khỏi Dĩnh đô, chạy đến đất Vân. Em của Vân công muốn giết Chiêu vương, Chiêu vương cùng Vân công chạy sang đất Tùy. Thế rồi quân Ngô liền kéo vào Dĩnh đô. Tử Tư, Bá Phỉ dùng roi đánh vào thây của Bình vương để báo thù cho cha.

Mùa xuân năm thứ mười, nước Việt nghe tin Ngô vương đang ở Dĩnh đô, trong nước trống không, liền chinh phạt nước Ngô. Ngô vương sai cánh quân khác đánh nước Việt. Nước Sở cấp báo với nước Tần, Tần sai quân cứu Sở, đánh Ngô, quân Ngô thua. Em trai Hạp Lư là Phù Khái thấy quân Tần, quân Việt thay nhau đánh bại quân Ngô, Ngô vương còn lưu lại Sở không về, Phù Khái trốn về Ngô rồi tự lập làm Ngô vương. Hạp Lư biết tin, liền dẫn quân về, tấn công Phù Khái. Phù Khái thua chạy sang nước Sở. Sở Chiêu vương đến tháng Chín mới về lại được Dĩnh đô, đoạn phong Phù Khái đất Đường Khê, đó là Đường Khê thị. Năm thứ mười một, Ngô vương sai Thái tử Phù Sai chinh phạt nước Sở, chiếm được đất Phan. Nước Sở lo sợ, bèn bỏ đất Dĩnh dời đô sang ấp Nhược.

Năm thứ mười lăm, Khổng tử làm Tướng quốc nước Lỗ.

Mùa hạ năm thứ mười chín, nước Ngô đánh nước Việt, Việt vương Câu Tiễn đón đánh ở đất Tuy Lý. Nước Việt sai dũng sĩ cảm tử khiêu chiến, dàn thành ba hàng đến trước quân Ngô, hét lên rồi tự cắt cổ. Quân Ngô đang mải trông, quân Việt thừa cơ tấn công quân Ngô, đánh bại quân Ngô ở đất Cô Tô, làm Ngô vương Hạp Lư bị thương ở ngón tay, quân phải lùi bảy dặm. Ngô vương bị thương rồi ốm chết. Hạp Lư truyền lập Thái tử Phù Sai, bảo rằng: “Mày có dám quên việc Câu Tiễn giết cha mày không?” Đáp rằng: “Không dám!” Năm thứ ba, mới báo thù được nước Việt.

Ngô vương Phù Sai năm thứ nhất, lấy đại phu Bá Phỉ làm Thái tể. Tập trận bắn cung, luôn nuôi chí báo thù nước Việt. Năm thứ hai, Ngô vương đem hết quân tinh nhuệ để thảo phạt nước Việt, đánh bại nước Việt ở đất Phù Tiêu, báo được mối thù ở đất Cô Tô. Việt vương Câu Tiễn liền đem năm nghìn giáp binh lưu lại ở Cối Kê, sai đại phu Chủng thông qua Thái tể Bá Phỉ của nước Ngô để cầu hòa, xin giao nước, nguyện làm tôi đòi cho nước Ngô. Ngô vương định nhận lời, Ngũ Tử Tư can rằng: “Xưa Hữu Qua thị giết Châm Quán rồi thảo phạt Châm Tầm, tiêu diệt con cháu nhà Hạ là Đế Tướng. Phi tử của Đế Tướng là Hậu Mân đang có thai, chạy trốn đến Hữu Nhưng rồi sinh ra Thiếu Khang. Thiếu Khang làm chức Mục chính* cho Hữu Nhưng. Hữu Qua lại muốn giết Thiếu Khang, Thiếu Khang chạy sang Hữu Ngu. Hữu Ngu nhớ đức của nhà Hạ, do đó đem hai con gái gả cho [Thiếu Khang] rồi phong cho ấp Luân; đất đai vuông một thành*, dân có một lữ*. Sau bèn thu phục dân chúng, vỗ về các quan chức nhà Hạ. Sai người dụ dỗ Hữu Qua, rồi tiêu diệt Hữu Qua thị, khôi phục cơ đồ của Hạ Vũ, tế tự nhà Hạ phối hưởng với trời, không làm mất đi những việc cũ [của triều Hạ]. Nay nước Ngô không mạnh bằng Hữu Qua, còn Câu Tiễn lại lớn hơn Thiếu Khang. Nay không thừa thế bây giờ mà diệt đi, lại muốn khoan dung, chẳng cũng nguy lắm sao! Hơn nữa, Câu Tiễn là người có thể chịu được cay đắng [để chờ thời], nay không tiêu diệt, sau tất phải hối hận.” Ngô vương không nghe, mà theo lời Thái tể Phỉ, rốt cuộc cho nước Việt được hòa, cùng lập minh ước rồi rút quân về.

Năm thứ bảy, Ngô vương Phù Sai nghe tin Tề Cảnh công chết mà các đại thần lại tranh sủng, vua mới còn yếu đuối, liền cất quân lên phía bắc chinh phạt nước Tề. Tử Tư can rằng: “Việt vương Câu Tiễn ăn không hai vị, mặc không hai màu, điếu viếng người chết, thăm nom kẻ ốm, ý muốn huy động dân chúng. Người này không chết, tất trở thành mối lo của nước Ngô. Nay nước Việt là bệnh trong phủ tạng mà nhà vua không lo trước, lại lo chuyện nước Tề, chẳng cũng sai lầm hay sao?” Ngô vương không nghe, bèn tiến lên phía bắc chinh phạt nước Tề, đánh bại quân Tề ở Ngải Lăng. [Ngô vương] đến đất Tăng, triệu Lỗ Ai công đến đòi cung ứng cỗ Bách lao*. Quý Khang tử sai Tử Cống dùng lễ chế nhà Chu thuyết phục Thái tể Phỉ, [Thái tể Phỉ] mới thôi [không đòi hỏi]. Nhân lúc lưu lại bèn cướp các đất phía nam nước Tề, nước Lỗ. Năm thứ chín, [nước Ngô] vì nước Trâu mà chinh phạt nước Lỗ, kéo đến [nước Lỗ], cùng nước Lỗ kết minh rồi về. Năm thứ mười, thừa cơ chinh phạt nước Tề rồi về. Năm thứ mười một, lại tiến lên phía bắc phạt Tề.

Việt vương Câu Tiễn dẫn các bề tôi của mình sang triều kiến nước Ngô, dâng lễ vật trọng hậu, Ngô vương vui lòng. Riêng Tử Tư lo sợ, nói: “Ấy là vứt bỏ nước Ngô vậy.” Can rằng: “Nước Việt [là mối lo] trong tim trong bụng, nay ta được đắc chí ở đất Tề, cũng giống như mảnh ruộng đá sỏi vậy, không dùng được vào việc gì. Hơn nữa, thiên “Bàn Canh chi cáo”* có câu “Kẻ ngông cuồng vượt lễ thì chớ lưu lại, nhà Thương nhờ thế mới hưng thịnh.” Ngô vương không nghe, sai Tử Tư đi sứ nước Tề, Tử Tư gửi gắm con mình cho Bào thị nước Tề, trở về phục mệnh với Ngô vương. Ngô vương biết chuyện, cả giận, ban kiếm Chúc lũ* để cho Tử Tư tự vẫn. Khi sắp chết, [Tử Tư] nói: “Trồng cây tử trên mộ của ta, để sau này làm quan tài. Móc mắt ta treo trên cửa đông nước Ngô, để ta xem nước Việt tiêu diệt nước Ngô.”

Bào thị nước Tề giết Tề Điệu công. Ngô vương biết chuyện, khóc ngoài cửa quân ba ngày, đoạn theo đường biển tấn công nước Tề. Người Tề đánh bại quân Ngô, Ngô vương bèn dẫn quân về.

Năm thứ mười ba, Ngô vương triệu Lỗ quân, Vệ quân đến hội minh ở đất Thác Cao.

Mùa xuân năm thứ mười bốn, Ngô vương lên phía bắc hội chư hầu ở đất Hoàng Trì, muốn xưng bá Trung nguyên để bảo toàn cho nhà Chu. Ngày Bính Tý tháng Sáu, Việt vương Câu Tiễn chinh phạt nước Ngô. Ngày Ất Dậu, năm nghìn quân Việt đánh với quân Ngô. Ngày Bính Tuất, bắt sống Thái tử Hữu nước Ngô. Ngày Đinh Hợi, vào đất Ngô. Người Ngô báo việc bại trận với Ngô vương Phù Sai, Phù Sai sợ tin tức đến tại chư hầu. Có kẻ tiết lộ tin ấy, Ngô vương nổi giận, chém bảy người ngay dưới trướng [để diệt khẩu]. Ngày Tân Sửu tháng Bảy, Ngô vương và Tấn Định công tranh làm minh chủ. Ngô vương bảo: “Trong nhà Chu, ta là trưởng.” Tấn Định công bảo: “Trong họ Cơ*, ta lớn nhất.” Triệu Ưởng nổi giận, định tiến đánh nước Ngô, bèn tôn Tấn Định công làm minh chủ. Ngô vương sau khi lập lời minh, chia tay vua Tấn, muốn đánh nước Tống. Thái tể Phỉ nói rằng: “Có thể thắng được nhưng không thể ở lại.” Liền dẫn quân về nước. Nước mất Thái tử, trong nước trong rỗng, Ngô vương ở ngoài nước lâu, quân sĩ đều mệt mỏi, thế là bèn đem hậu lễ để giảng hòa với nước Việt.

Năm thứ mười lăm, Điền Thường nước Tề giết Giản công. Năm thứ mười tám, nước Việt ngày càng mạnh. Việt vương Câu Tiễn dẫn quân lại đánh bại quân Ngô ở Lạp Trạch. Nước Sở diệt nước Trần.

Năm thứ hai mươi, Việt vương Câu Tiễn lại chinh phạt nước Ngô. Năm thứ hai mươi mốt, bèn bao vây nước Ngô. Ngày Đinh Mão tháng Mười một năm thứ hai mươi ba, nước Việt đánh bại nước Ngô. Việt vương Câu Tiễn định đày Ngô vương Phù Sai ra Dũng Đông, cấp cho trăm hộ để ở lại đó. Ngô vương nói: “Ta già rồi, không thể thờ quân vương được nữa. Ta hối hận vì không nghe lời Tử Tư, tự khiến mình sa vào cảnh này.” Đoạn cắt cổ chết. Việt vương tiêu diệt nước Ngô, giết Thái tể Phỉ vì cho là bất trung, rồi trở về.

Thái sử công bàn rằng: Khổng tử nói: “Thái bá khá gọi là bậc chí đức vậy, ba lần nhường thiên hạ, mà dân không biết để xưng tụng.” Ta đọc cổ văn Xuân Thu, mới hay nước Ngu ở Trung nguyên và Câu Ngô ở Kinh Man là anh em vậy. Lòng nhân của Diên Lăng Quý tử, mến mộ đạo nghĩa vô cùng, xem điều nhỏ nhặt mà biết chuyện đục trong. Ôi, sao mà bậc quân tử ấy lại hiểu biết sự vật rộng lớn đến thế!*

Mời các bạn đón đọc Sử Ký III. Thế Gia của tác giả Tư Mã Thiên & Phạm Văn Ánh (dịch).