Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Sử Ký II. Liệt Truyện (Hạ)

QUYỂN 102TRƯƠNG THÍCH CHI, PHÙNG ĐƯỜNG LIỆT TRUYỆN

Trương Thích Chi

Đình úy Trương Thích Chi, người Đổ Dương, tự là Quý. Sống cùng anh trai là Trọng. Nhờ có của cải nên được làm Kỵ lang*, thờ Hiếu Văn đế, mười năm không được thăng chức, không có gì để người ta biết tiếng. Thích Chi nói: “Làm quan lâu hao tài sản của anh, không được thỏa ý.” Định xin từ chức về nhà. Trung lang tướng Viên Áng biết Thích Chi là hiền năng, tiếc nếu Chi đi, bèn xin chuyển Thích Chi bổ dụng làm Yết giả*. Thích Chi triều kiến xong, nhân đó tiến lên nói những việc nên làm. Văn đế bảo: “Thấp xuống chút, chớ bàn luận cao quá, làm sao để thời nay có thể thi hành được.” Thế là Thích Chi nói những việc thời Tần, Hán, nguyên nhân khiến Tần mất Hán hưng, nói một hồi lâu. Văn đế khen ngợi, bèn phong Thích Chi làm Yết giả bộc xạ*.

Thích Chi theo xuất hành, lên vườn nuôi hổ. Hoàng thượng hỏi quan Úy vườn Thượng Lâm về sổ sách ghi chép các loài cầm thú, hỏi hơn mười việc, quan Úy nhìn trái ngó phải, đều không trả lời được. Viên Sắc phu* coi vườn hổ đứng cạnh viên Úy trả lời Hoàng thượng rất tường tận về sổ sách ghi chép các loài cầm thú, qua đấy để thấy y có tài ứng đối xuất sắc. Văn đế nói: “Quan lại mà không được thế ư? Viên Úy kia không trông cậy được?” Bèn hạ lệnh cho Thích Chi phong viên Sắc phu làm Thượng Lâm lệnh. Thích Chi lâu sau tiến lên hỏi: “Bệ hạ thấy Giáng hầu Chu Bột là người thế nào?" Hoàng thượng đáp: “Trưởng giả* vậy.” Lại hỏi: “Đông Dương hầu Trương Tương Như là người thế nào?” Hoàng thượng lại đáp: “Trưởng giả.” Thích Chi nói: “Xét Giáng hầu, Đông Dương hầu đáng xưng tụng là trưởng giả, hai người này lúc bàn việc cứ lắp ba lắp bắp, lẽ nào học theo viên Sắc phu thao thao bất tuyệt ư? Vả nhà Tần dùng những viên thư lại, chỉ tranh làm sao cho nhanh, coi việc hà khắc, cốt so cao thấp, nhưng điều tệ của chúng là chỉ có văn suông thôi, thực chất không có lòng trắc ẩn. Vì thế chưa từng nghe đến lỗi của chúng, [thế mà] ngày càng suy bại, đến Tần Nhị thế, thiên hạ sụt như đất lở. Nay bệ hạ thấy viên Sắc phu có tài ăn nói mà phong vượt bậc, thần sợ thiên hạ hùa theo, tranh nói cho giỏi mà không trọng thực chất. Và lại dưới bắt chước trên nhanh như cái bóng và tiếng vang, dùng người không thể không xét thật kỹ.” Văn để nói: “Phải.” Bèn thôi, không phong cho viên Sắc phu ấy nữa.

Hoàng thượng lên xe, triệu Thích Chi ngồi cùng, đi chầm chậm, hỏi Thích Chi những mối tệ của nhà Tần. [Thích Chi] đều tình thực trả lời. Đến cung, Hoàng thượng phong Thích Chi làm Công xa lệnh*.

Không lâu sau, Thái tử và Lương vương cùng ngồi xe vào triều, đến cửa Tư mã không xuống xe, thấy vậy Thích Chi đuổi theo ngăn Thái tử và Lương Vương, không cho vào cổng điện. Rồi hạch tội bất kính đến cửa Tư mã không chịu xuống xe, tâu lên triều đình. Bạc thái hậu biết chuyện, Văn đế cởi mũ tạ lỗi: “Con dạy con cái không nghiêm.” Bạc Thái hậu bèn sai sứ mang chiếu đến xá tội cho Thái tử và Lương Vương, sau đó cho vào cùng. Văn đế vì thế cho Thích Chi là người kỳ lạ, phong làm Trung đại phu*.

Một thời gian sau, làm đến Trung lang tướng*. Theo hoàng thượng đến Bá Lăng, tới phía bắc lăng mộ dõi trông ra xa. Khi ấy Thận phu nhân đi theo, Hoàng thượng chỉ đường Tân Phong cho Thận phu nhân, bảo rằng: “Đường này đến Hàm Đan đó.” Sai Thận phu nhân đánh đàn sắt, Hoàng thượng nương tiếng đàn mà hát, tình ý thảm đạm bị thương, quay lại bảo quần thần rằng: “Ôi chao! Lấy đá núi phía bắc làm quách, dùng sợi gai sợi tơ để lót, dùng sơn chít các khe, há có thể động vào được?” Tả hữu đều nói: “Phải.”Thích Chi tiến lên rằng: “Nếu bên trong có thứ người ta muốn, dẫu kiên cố như núi Nam vẫn có kẽ hở; nếu bên trong không có thứ người ta muốn, dẫu không có đá có quách, sao phải lo?” Văn để khen phải. Rồi sau, phong Thích Chi làm Đình úy*

Thời gian sau, Hoàng thượng xuất hành qua cầu Trung Vị, có người từ dưới cầu chạy ra, khiến ngựa kéo xe kinh sợ. Liền sai kỵ mã bắt, giao cho Đình úy. Thích Chi thẩm vấn, hắn nói: “Tôi người huyện này, đến đây, nghe lệnh cấm đường, ẩn mình dưới cầu. Hồi lâu, cho là vua đã đi qua, liền chạy ra, thấy xe ngựa kỵ mã, vội bỏ chạy.”Đình úy tâu lên, một người phạm lệnh cấm đường, đáng phạt tiền. Văn đế giận nói: “Người này làm ngựa của ta kinh sợ, may ngựa của ta thuần tính nhu hòa, nếu ngựa khác, chẳng phải đã làm tổn thương đến ta sao? Thế mà Đình úy xử tội phạt tiền?” Thích Chi nói: “Pháp luật, thiên tử và thiên hạ đều tuân thủ như nhau. Nay pháp luật quy định như thế mà xử nặng thêm, dân sẽ không tin nữa. Vả lại lúc ấy, Hoàng thượng giết ngay thì thôi. Nay đã giao cho Đình úy, Đình úy là cán cân công bằng thiên hạ, nếu nghiêng một bên, thiên hạ dùng pháp luật đều biến nhẹ thành nặng, dân biết đặt chân tay vào đâu nữa? Xin bệ hạ xét kỹ cho.” Lâu sau, Hoàng thượng nói: “Đình úy xử thế là phải.”

Về sau, có người trộm vòng ngọc trước bệ thờ Cao miếu*, bị bắt, Văn đế tức giận, giao Đình úy trị tội. Thích Chi chiếu theo luật xử tội trộm đồ phục sức ở tông miếu, tâu tội đáng chém giữa chợ. Hoàng thượng cả giận nói: “Người này vô đạo, dám trộm đồ tông miếu tiên đế, ta giao Đình úy, là muốn xử cả họ y, vậy mà ông dựa pháp luật tấu lên, đó không phải tỏ ý sùng kính tông miếu của ta.” Thích Chi cởi mũ dập đầu tạ tội: “Theo luật xử thế là đủ. Và cũng tội chết, nhưng chia ra nghịch thuận khác nhau. Nay trộm đồ trong tông miếu mà giết cả họ, vạn nhất có ngu dân nào lấy ít đất ở Trường Lăng*, bệ hạ lấy gì xử nặng thêm được?” Hồi lâu, Văn đế và Thái hậu mới lên tiếng, cho Đình úy xử lý thỏa đáng. Bấy giờ, quan Trung úy Điều hầu Chu Á Phu và Tướng quốc nước Lương là Sơn Đô hầu Vương Điềm Khai thấy Thích Chi chấp pháp công bằng, bèn kết làm bạn thân. Trương Đình úy nhờ đó được thiên hạ khen ngợi.

Sau, Văn đế băng hà, Cảnh đế lên ngôi, Thích Chi sợ, thác bệnh. Muốn từ chức về nhà, sợ bị giết đến nơi; định yết kiến tạ tội nhưng chưa biết làm cách nào. Theo kế của Vương Sinh, rốt cục được yết kiến tạ tội, Cảnh đế không bắt lỗi.

Vương Sinh giỏi về học thuyết Hoàng-Lão, là ẩn sĩ. Sinh từng được triệu vào triều, tam công Cửu khanh đều đông đủ, Vương Sinh cao tuổi, nói: “Giày tôi tuột”, quay lại bảo Trương Đình úy: “Buộc giày giúp tôi?” Thích Chi quỳ xuống buộc dây giày cho. Sau, có người bảo Vương Sinh: “Sao ông làm nhục Trương đình úy giữa triều đình, sai quỳ buộc dây giày thế?” Vương Sinh đáp: “Tôi già cả lại hèn hạ, tự xét trọn đời cũng chẳng ích gì cho Trương Đình úy. Nay Trương Đình úy là danh thần thiên hạ, tôi cố ý làm nhục Đình úy, khiến quỳ buộc dây giày, muốn làm ông ấy được coi trọng đó.” Các công khanh biết chuyện đó, cho Vương Sinh hiền năng, lại càng coi trọng Trương Đình úy.

Trương Đình úy thờ Cảnh đế hơn năm, làm Tướng quốc cho Hoài Nam vương, do trước có lỗi với Cảnh đế. Lâu sau, Thích Chi chết, con là Trương Chí, tự Trưởng Công, làm quan đến Đại phu, bị bãi chức. Do không thể làm vui lòng người quyền quý đương triều, nên trọn đời không làm quan nữa.

Phùng Đường

Phùng Đường, ông nội là người Triệu. Cha sang ở đất Đại. Nhà Hán nổi lên lại rời đến An Lăng. Đường nổi tiếng hiếu thuận, làm Trung lang thị trưởng, thờ Văn đế. Văn đế đi xe qua, hỏi Đường rằng: “Cụ sao còn làm quan Lang? Nhà cụ ở đâu?" Đường cứ tình thực trả lời. Văn đế nói: “Lúc ta ở đất Đại, quan coi việc ăn uống cho ta là Cao Khư nhiều lần nói về sự hiền năng của tướng quân nước Triệu là Lý Tề, từng đánh trận dưới thành Cự Lộc. Nay mỗi khi ta dùng cơm, tâm ý không lúc nào không để ở Cự Lộc. Cụ biết người đó không?" Đường đáp rằng: “Cũng chưa bằng Liêm Pha, Lý Mục làm tướng đâu.” Hoàng thượng hỏi: “Tại sao?” Đường đáp: “Ông thần lúc làm quan ở Triệu, thống lãnh các tướng, thân với Lý Mục. Cha thần vốn là Tướng quốc nước Đại, thân với tướng Triệu là Lý Tề, do đó biết ông ta là người thế nào.” Hoàng thượng từng nghe nói về Liêm Pha, Lý Mục là người thế nào, rất thích thú, liền vỗ đùi nói: “Ôi chao! Riêng ta không có được Liêm Pha, Lý Mục làm tướng, nếu có, ta há lo giặc Hung Nô ư?” Đường nói: “Bệ hạ dẫu có Liêm Pha, Lý Mục cũng không thể dùng được đâu.” Hoàng thượng nổi giận, đứng dậy đi vào trong cung. Lâu sau, triệu Đường đến trách: "Sao ông làm nhục ta trước đám đông, không có chỗ khác để nói à?” Đường tạ lỗi rằng: “Kẻ bỉ lậu này không biết kiêng kỵ.”

Lúc bấy giờ, Hung Nô mới kéo đại quân vào Triều Na, giết Đô úy Bắc Địa là Ngang. Hoàng thượng lo lắng về việc giặc Hồ, cuối cùng hỏi Đường: “Sao ông biết ta không thể dùng được Liêm Pha, Lý Mục?” Đường đáp rằng: “Thần nghe nói vương giả thời thượng cổ khiển tướng, quỳ gối đẩy xe, nói rằng việc trong triều quả nhân xử trí, việc ngoài triều tướng quân xử trí. Việc quân công tước thưởng đều quyết định bên ngoài, về mới tâu. Đó không phải nói suông vậy. Ông nội thần nói, Lý Mục làm tướng nước Triệu ở biên giới, thuế thu được từ chợ trong quân đều nuôi quân sĩ, việc ban thưởng do tướng bên ngoài quyết định, triều đình không can thiệp. Giao trọng trách và đòi hỏi thành công, nên Lý Mục mới được dốc hết trí tuệ, chọn lấy một nghìn ba trăm cỗ xe, một vạn ba nghìn kỵ binh giỏi cung nỏ, mười vạn quân sĩ thiện chiến, để phía bắc truy kích Thiền vu, phá Đông Hồ, diệt Đạm Lâm, phía tây khống chế Tần hùng mạnh, phía nam trợ giúp Hàn, Ngụy. Lúc bấy giờ, Triệu như muốn xưng bá. Về sau, Triệu vương Thiên lên ngôi, mẹ là con hát. Triệu vương Thiên lên ngôi, liền nghe sàm tấu của Quách Khai, chém chết Lý Mục, sai Nhan Tụ thay thế. Cho nên quân tan tướng chạy, bị Tần bắt giết. Nay thần trộm nghe Ngụy Thượng làm Quận thú Vân Trung, tô thuế ở chợ trong quân lấy hết nuôi quân sĩ, xuất bổng lộc riêng, năm ngày giết một con trâu, thết đãi tân khách cùng quân lại và xá nhân, khiến Hung Nô lánh xa, không dám gần biên giới Vân Trung. Giặc từng xâm nhập một lần, Thượng thống lãnh xa kỵ tiến đánh, giết được rất nhiều. Xét sĩ tốt đều là con em dân thường, xuất thân đồng ruộng rồi tòng quân, đâu biết sổ sách ghi quân lệnh quân công là gì. Suốt ngày ra sức chiến đấu, chém đầu giặc bắt tù binh, dâng công lên quan tướng, một lời không phù hợp, bọn văn lại dùng pháp luật chế ước. Đáng thưởng không thưởng, lại tin dùng bọn quan lại dùng phép tắc chế ước. Thần ngu muội, cho là pháp lệnh của bệ hạ quả nghiêm minh, thưởng quá ít, phạt quá nặng. Vả lại Quận thú Vân Trung là Ngụy Thượng báo công vì thiếu sáu thủ cấp địch, bệ hạ giao quan xử lý, bỏ tước phong, xử một năm lao dịch. Từ đó mà nói, bệ hạ dẫu có Liêm Pha, Lý Mục, cũng không thể dùng được. Thần thực ngu muội, phạm chỗ cấm kỵ tội chết, tội chết!” Văn đế rất vui. Ngay hôm ấy, lệnh cho Phùng Đường cầm phù tiết xá tội cho Ngụy Thượng, phục chức Quận thú Vân Trung, phong Đường làm Xa kỵ đô úy, quản các Trung úy và quân chiến xa các quận trong nước.

Bảy năm sau, Cảnh đế lên ngôi, phong Đường làm Tướng quốc nước Sở, rồi lại bãi chức. Vũ đế lên ngôi, cầu người hiền lương, cất cử Phùng Đường. Đường bấy giờ đã trên chín mươi tuổi, không thể làm quan được nữa, bèn lấy con trai Đường là Phùng Toại làm quan Lang. Toại tự là Vương Tôn, cũng là kỳ sĩ, bạn thân của ta.

Thái sử công bàn rằng: Trương Quý bàn về trưởng giả, giữ pháp độ không dua theo ý nhà vua; Phùng công luận việc khiến tướng, rất có ý vị, rất có ý vị! Ngạn ngữ nói: “Không biết người nào, hãy xem bạn họ.” Việc hai người được xưng tụng, có thể khiến triều đình rạng rỡ. Kinh Thư viết: “Không thiên tư không kết đảng, đạo của nhà vua rộng rãi, không kết đảng không thiên tư, đạo của nhà vua công bằng.”* Trương Quý, Phùng công gần được thế vậy.

***

QUYỂN 103VẠN THẠCH, TRƯƠNG THÚC LIỆT TRUYỆN

Thạch Phấn, Thạch Kiến

Vạn Thạch quân tên là Phấn, cha người nước Triệu, họ Thạch. Nước Triệu mất, rời sang sống ở huyện Ôn. Cao tổ sang đông đánh Hạng Tịch, qua Hà Nội, bấy giờ Phấn mười lăm tuổi, làm tiểu lại, hầu cận Cao tổ. Cao tổ nói chuyện cùng, yêu quý vị Phấn rất cung kính, hỏi rằng: “Nhà mày còn những ai?” Đáp rằng: “Phấn chỉ còn mẹ, bất hạnh mắt mù, nhà nghèo, có chị, biết gảy đàn sắt.”Cao tổ hỏi: “Mày muốn theo ta không?" Đáp: “Xin tận sức.” Thế là Cao đế triệu chị Phấn, hóa ra là mỹ nhân, cho Phấn làm Trung quyên, phụ trách nhận thư từ danh thiếp, dời nhà Phấn đến làng Thích Lý trong thành Trường An, do chị Phấn là mỹ nhân vậy. Làm quan đến thời Hiếu Văn đế, tích lũy công lao, làm tới Thái trung đại phu*. Không có văn tài, nhưng cung kính cẩn trọng không ai sánh bằng.

Thời Văn đế, Đông Dương hầu Trương Tương Như làm Thái tử Thái phó, bị bãi chức. Chọn người có thể giữ chức Thái phó, đều tiến cử Phấn, Phấn được làm Thái tử Thái phó*. Khi Hiếu Cảnh đế lên ngôi, phong làm Cửu khanh; Phấn ở gần, Hoàng đế sợ, bèn chuyển Phấn làm Tướng quốc cho chư hầu. Con trưởng của Phấn là Kiến, thứ hai là mỗ, thứ ba là mỗ*, thứ tư là Khánh, đều đức hạnh thuần hậu, hiếu thuận cẩn trọng, làm quan đến trật hai nghìn thạch. Thế là Cảnh đế nói: “Thạch quân cùng bốn người con đều làm quan đến hạng hai nghìn thạch, bề tôi được tôn sủng đều tập trung ở nhà ông ta.” Phấn được xưng hiệu là Vạn Thạch quân.

Năm cuối thời Hiếu Cảnh đế, Vạn Thạch quân được hưởng lộc Thượng đại phu, về nhà dưỡng lão, hằng năm khi triều hội, lấy tư cách đại thần vào chầu. Qua cổng cung, Vạn Thạch quân ắt xuống xe rảo bước vào, thấy xe vua trên đường đều giữ đúng nghi thức. Con cháu làm tiểu lại, về nhà đến bái yết, Vạn Thạch quân phải mặc triều phục mới gặp, không gọi theo tên. Con cháu có lỗi lầm, không trách mắng, cho ngồi một bên, người ngồi đối diện không cho ăn uống. Rồi sau các con phê bình lẫn nhau, người có tuổi phạm lỗi phải cởi trần tạ tội, sửa đổi, mới được chấp nhận. Con cháu ai đến tuổi đội mũ* ở bên cạnh, dẫu ngày thường cũng phải đội mũ, nghiêm cẩn đến thế. Đầy tớ vui vẻ, vâng dạ cẩn trọng. Khi Hoàng thượng ban đồ ăn cho gia đình, ắt dập đầu phủ phục mà ăn, hệt như trước mặt Hoàng thượng. Khi xử lý việc tang, tỏ rõ đau đớn thương xót. Con cháu noi theo dạy bảo, cũng hệt như thế. Gia đình Vạn Thạch quân nhờ hiếu thuận cẩn trọng, nổi tiếng khắp các quận trong nước, dẫu các nhà phẩm hạnh chất phác ở Tề, Lỗ, đều tự cho mình không bằng.

Năm Kiến Nguyên thứ hai, Trung lang lệnh Vương Tang vì văn học mà mắc tội. Hoàng thái hậu cho là nhà nho chuộng văn vẻ mà kém phẩm hạnh, nay nhà Vạn Thạch quân không nói nhiều mà chủ động thi hành, bèn phong con trưởng là Kiến làm Lang trung lệnh, con út là Khánh làm Nội sử.

Kiến già bạc đầu, Vạn Thạch quân còn khỏe mạnh. Kiến làm Lang trung lệnh, cứ làm năm ngày được nghỉ ngơi một ngày, lại về thăm cha, vào phòng kế bên, trộm hỏi người hầu, lấy quần lót cha mặc và bô, tự tay giặt rửa rồi giao cho người hầu, không dám để Vạn Thạch quân biết, coi đó là việc thường. Kiến làm Lang trung lệnh, việc gì cần nói, đuổi hết người bên cạnh, lời nói tận tình, khẩn thiết; đến khi triều kiến, tựa như chưa từng nói gì. Vì thế Hoàng thượng rất tôn trọng, dùng lễ đối đãi.

Vạn Thạch quân chuyển ra ở Lăng Lý. Nội sử Khánh say rượu về nhà, đến cổng ngoài không xuống xe. Vạn Thạch quân hay chuyện, bỏ ăn. Khánh sợ, để trần xin nhận tội, không cho. Cả họ tộc cùng anh là Kiến đều cởi trần thỉnh tội, Vạn Thạch quân trách rằng: “Nội sử là người sang quý, vào cổng làng, trưởng lão trong làng đều chạy đi ẩn, thế mà Nội sử nghênh ngang ngồi xe, phạt thế thỏa đáng!” Bèn dạy bảo rồi tha cho. Khánh cùng các con em vào cổng làng, chạy vội về nhà.

Năm Nguyên Sóc thứ năm, Vạn Thạch quân mất. Con trưởng là Lang trung lệnh Kiến khóc lóc đau đớn, chống gậy mới đi nổi. Hơn năm sau, Kiến cũng chết. Các con cháu đều hiếu thuận, nhưng Kiến hiếu nhất, hơn cả Vạn Thạch quân.

Kiến làm Lang trung lệnh, dâng thư tâu việc, được phê chuẩn rồi chuyển xuống, Kiến đọc bản tấu, nói: “Viết nhầm rồi! Chữ 'mã'(馬) cùng phần đuôi đáng lẽ năm nét, nay viết bốn nét, thiếu một nét, Hoàng thượng trách tội chết mất!” Vô cùng sợ sệt. Ông tính cẩn thận, với việc khác cũng như thế.

Thạch Khánh

Con út Vạn Thạch quân là Khánh làm chức Thái bộc*, khi ngự giá ra ngoài, Hoàng thượng hỏi trước xe có mấy con ngựa, Khánh cầm roi trỏ từng con xong, giơ tay đáp: “Sáu con ngựa.”Trong số các con, Khánh ít cẩn trọng nhất, mà còn như thế. [Khánh] làm Tướng quốc nước Tề, cả nước Tề đều ngưỡng mộ đức hạnh gia đình ông, không cần nói mà Tề rất yên trị, lập đền thờ gọi là Thạch tướng từ*.

Năm Nguyên Thú thứ nhất, Hoàng thượng lập Thái tử, chọn bề tôi có thể làm Thái phó, Khánh từ Quận thủ quận Bái phong lên làm Thái tử Thái phó, được bảy năm thăng làm Ngự sử đại phu.

Năm Nguyên Đỉnh thứ năm, mùa thu, Thừa tướng có tội, bị bãi chức. Hạ chiếu cho Ngự sử: “Vạn Thạch quân là người được tiên đế tôn trọng, con cháu hiếu thảo, nay lấy Ngự sử đại phu Khánh làm Thừa tướng, phong làm Mục Khâu hầu.” Lúc này nhà Hán đang xuống phía nam thảo phạt lưỡng Việt*, sang đông tấn công Triều Tiên, lên bắc truy kích Hung Nô, sang tây đánh Đại Uyển, trong nước nhiều việc. Thiên tử tuân thủ trong nước, sửa sang miếu thần thượng cổ, làm lễ tế trời, đại hưng lễ nhạc. Của cải quốc gia thiếu thốn, bọn Tang Hoằng Dương phụ trách làm lợi cho nước, bọn Vương Ôn Thư giữ luật nghiêm khắc, bọn Nghệ Khoan sùng chuộng văn học, làm quan đến Cửu khanh, thay nhau nắm việc, không cần Thừa tướng quyết định, Thừa tướng chỉ cần trung hậu cẩn trọng mà thôi. Tại vị được chín năm, không nói được gì về việc khuông phò. Thạch Khánh từng muốn xin trị tội cận thần Sở Trung và quan Cửu khanh là Hàm Tuyên, không thể khiến họ nhận tội, trái lại còn bị trách lỗi, phải chuộc tội.

Trong năm Nguyên Phong thứ tư, Quan Đông có hai trăm vạn lưu dân, người không có hộ tịch tới bốn mươi vạn, công khanh bàn nghị, muốn xin dời lưu dân đến biên giới, như bị biếm trích. Hoàng thượng cho rằng Thừa tướng cao tuổi cẩn trọng, không thể cùng bàn nghị, bèn cho Thừa tướng cáo lão hồi hương, rồi xem xét đề nghị của Ngự sử đại phu. Thừa tướng hổ thẹn vì không được bổ nhậm, bèn dâng thư: “Khánh may được làm Thừa tướng để đợi tội, như con ngựa hèn chẳng biết lấy gì giúp cuộc trị lý, thành quách kho lẫm trống không, dân phần nhiều lưu vong, đáng tội búa rìu, Hoàng thượng không nỡ lòng xử tội. Xin trả lại ấn Thừa tướng, ấn phong hầu, đem bộ xương tàn về quê, tránh đường cho người hiền tài.” Thiên tử nói: “Kho lương đã trống, dân nghèo lưu vong, ông lại muốn dời đi, khiến họ lay động không yên, chấn động nguy cấp, mà lại từ chức, ông muốn đổ cái khó cho ai đây?” Hạ chiếu trách Khánh, Khánh rất hổ thẹn, bèn quay lại xử lý chính sự.

Khánh văn nghĩa sâu xa, thẩm xét cẩn thận, nhưng không có mưu lược lớn, không nói được gì cho trăm họ. Hơn ba năm sau, trong năm Thái Sơ thứ hai, Thừa tướng Khánh chết, thụy là Điềm hầu. Con giữa của Khánh là Đức, được Khánh tin yêu coi trọng, Hoàng thượng lấy Đức thừa tự, thay Khánh nối tiếp tước hầu. Sau làm quan Thái thường, phạm pháp bị xử chết, được chuộc tội, bị giáng làm dân thường. Khánh đương làm Thừa tướng, các con cháu có mười ba người làm quan đến hạng hai nghìn thạch. Sau khi Khánh chết, một số bị tội bãi chức, sự hiếu thuận cẩn trọng ngày một suy.

Vệ Oản

Kiến Lăng hầu Vệ Oản, người Đại Lăng đất Đại. Oản nhờ tài điều khiển xe ngựa được làm quan Lang, thờ Văn đế, xét công lao được thăng lên Trung lang tướng, thuần hậu cẩn trọng, chẳng còn gì khác. Hiếu Cảnh đế khi làm Thái tử, triệu thân cận của Hoàng thượng đến uống rượu, còn Oản thác bệnh không đi. Lúc Văn đế sắp mất, dặn Cảnh đế rằng: “Oản là bậc trưởng giả, hãy đối xử tốt với ông ta.” Đến khi Văn đế băng hà, Cảnh đế lên ngôi, hơn năm không trách mắng Oản, Oản ngày càng cẩn trọng.

Cảnh đế ra chơi vườn Thượng Lâm, hạ chiếu Trung lang tướng ngồi cùng xe, trở về hỏi rằng: “Ông biết tại sao được ngồi cùng xe không?” Oản đáp: “Thần từ kẻ đánh xe, may được xét công thẳng lên làm Trung lang tướng, không biết nguyên nhân thế nào.”Hoàng thượng hỏi: “Lúc ta làm Thái tử có triệu ngươi, ngươi không chịu đến là cớ làm sao?” Đáp rằng: “Tội thần đáng chết, thần thực bị ốm!” Hoàng thượng ban kiếm. Oản nói: “Tiên đế ban cho thần sáu thanh kiếm, thần không dám vâng chiếu nhận thêm.” Hoàng thượng nói: “Kiếm, người ta mua đi bán lại, riêng người giữ đến nay chăng?”Oản đáp: “Còn đủ.” Hoàng thượng sai lấy sáu thanh kiếm, kiếm còn trong bao, chưa từng đeo qua. Quan Lang có lỗi, thường phải chịu tội, không được đổ thừa cho tướng quan khác; nếu có công, hay nhường tướng khác. Hoàng thượng cho là liêm chính, trung thực, không có lòng khác, bèn phong Oản làm Thái phó cho Hà Gian vương. Ngô, Sở làm phản, hạ chiếu sai Oản làm tướng, đem quân Hà Gian đi đánh Ngô, Sở có công, phong làm Trung úy. Được ba năm, nhờ quân công, trong năm Tiền Nguyên thứ sáu thời Cảnh đế, phong Oản làm Kiến Lăng hầu.

Năm sau, Hoàng thượng phế truất Thái tử, giết thuộc quan Lật Khanh. Hoàng thượng cho Oản là bậc trưởng giả, không nỡ trị tội, bèn ban cho Oản cáo lão về quê, rồi sai Chất Đô bắt họ Lật trị tội. Xong xuôi, Hoàng thượng lập Giao Đông vương làm Thái tử, triệu Oản về, phong làm Thái tử Thái phó. Lâu sau, thăng làm Ngự sử đại phu. Được năm năm, thay vào hầu Lưu Xá làm Thừa tướng, vào triều tâu việc theo đúng chức trách. Nhưng từ khi mới làm quan đến lúc làm Thừa tướng, trước sau không có gì đáng nói. Thiên tử cho là người đôn hậu, có thể giúp thiếu chúa, tôn sùng ông ta, ban thưởng rất nhiều.

Oản làm Thừa tướng được ba năm, Cảnh đế băng hà, Vũ đế lên ngôi. Trong niên hiệu Kiến Nguyên, Thừa tướng nhân lúc Cảnh đế bị bệnh, tù nhân của đám quan thư nhiều người bị tội lụy, nên bị coi không xứng với chức vị, bị bãi quan. Sau đó Oản chết, con là Tín lên thay, dâng vàng làm tế khí sai lễ chế, bị phế tước hầu.

Trực Bất Nghi

Tái hầu Trực Bất Nghi là người Nam Dương. Làm quan Lang, thờ Văn đế. Cùng chỗ ông ở có người cáo lão về quê, cầm nhầm vàng của quan Lang cùng ở khác, thế rồi người đó phát hiện, định đổ xằng cho Bất Nghi, Bất Nghi tạ lỗi nhận cầm, mua vàng đền. Người cáo lão về quê trở lại trả vàng, viên quan Lang mất vàng trước đây rất hổ thẹn, nhân đó khen Bất Nghi là trưởng giả. Văn đế khen ngợi, từng bước thăng đến Thái trung đại phu. Hội kiến ở triều đình, có người hủy báng: “Bất Nghi tướng mạo rất đẹp, nhưng không hiểu sao khéo trộm cả chị dâu!”* Bất Nghi nghe được, nói: “Tôi không có anh trai.” Cuối cùng chẳng tự thanh minh.

Khi Ngô, Sở làm phản, Bất Nghi đang làm quan hạng hai nghìn thạch, cầm quân tiến đánh. Thời Cảnh đế năm Hậu Nguyên thứ nhất, phong làm Ngự sử đại phu. Thiên tử xét công người tham gia dẹp loạn Ngô, Sở, bèn phong Bất Nghi làm Tái hầu. Thời Vũ đế, niên hiệu Kiến Nguyên, cùng Thừa tướng Oản đều vì mắc lỗi nên bị bãi miễn.

Bất Nghi học theo Lão tử, đến chỗ nào cũng làm như các quan thời xưa, chỉ sợ người ta biết sự tích làm quan của mình. Không muốn lập danh tiếng, được khen là trưởng giả. Bất Nghi chết, con là Tương Như lên thay. Cháu nội là Vọng, dâng vàng làm tế khí sai lễ chế, bị mất tước hầu.

Chu Nhân

Lang trung lệnh Chu Văn, tên là Nhân, tổ tiên vốn người Nhậm Thành. Nhờ làm nghề thuốc nên được tấn kiến. Cảnh đế khi là Thái tử, cho làm Xá nhân, tích công thăng dần, đến thời Hiếu Văn đế làm tới Thái trung đại phu. Cảnh đế mới lên ngôi, phong Nhân làm Lang trung lệnh.

Nhân vốn thâm trầm kín đáo, thường mặc áo vá, quần ướt nước tiểu, cho nên không sạch sẽ, nhờ đó được sủng ái. Cảnh đế vào hậu cung, bí mật đùa cợt với cung tần, Nhân thường ở bên. Đến khi Cảnh đế băng hà, Nhân vẫn làm Lang trung lệnh, cũng chẳng có gì đáng nói. Có lần Hoàng thượng hỏi về người khác, Nhân đáp: “Hoàng thượng tự xét xem.” Cũng không hề hủy báng. Vì thế Cảnh đế hai lần đến nhà. Gia đình Nhân chuyển đến Dương Lăng. Hoàng thượng ban tặng rất nhiều, nhưng thường từ chối, không dám nhận. Chư hầu quần thần đưa hối lộ, trước sau không nhận của ai.

Vũ đế lên ngôi, cho là bề tôi của tiên đế, tôn trọng Nhân. Nhân cáo bệnh xin từ chức, được hưởng lộc hai nghìn thạch về quê, con cháu đều làm đại quan.

Trương Âu

Ngự sử đại phu Trương Thúc, tên là Âu, con ngành thứ của An Khâu hậu Trương Duyệt. Thời Hiếu Văn đế, dựa vào thuyết Hình danh, để phụng sự Thái tử. Nhưng Âu tuy theo Hình danh, song lại là bậc trưởng giả. Thời Cảnh đế, được tôn trọng, từng làm quan Cửu khanh. Đến thời Vũ đế, năm Nguyên Sóc thứ tư, Hàn An Quốc bị bãi chức, chiếu phong Âu làm Ngự sử đại phu. Từ khi Âu làm quan, chưa từng nói muốn tra án ai, chuyên lấy sự thành khẩn trung hậu xử lý việc quan. Thuộc quan cho ông là trưởng giả, cũng không dám khinh khi. Tâu trình việc ngục tụng, việc có thể thẩm xét lại thì thẩm xét; việc không thể thẩm xét lại bất đắc dĩ phải chịu, nhỏ lệ rồi đích thân xem xét, niêm phong. Lòng yêu người đến thế đấy.

Tuổi già bệnh nặng, xin từ quan. Thế rồi thiên tử cũng ban chế sách cho nghỉ, cáo lão về nhà hưởng lộc bậc Thượng đại phu. Nhà ở Dương Lăng, con cháu đều làm đại quan.

Thái sử công bàn rằng: Trọng Ni có nói: “Người quân tử muốn trì độn trong lời nói mà mẫn tiếp ở việc làm, là nói về Vạn Thạch, Kiến Lăng, Trương Thúc chăng? Vì thế họ giáo hóa không nghiêm nghị mà thành công, không hà khắc mà an trị. Tái hầu làm quan khôn khéo, còn Chu Văn lại bợ đỡ, bị người quân tử chỉ trích, coi họ gần như xu nịnh. Nhưng như họ có thể gọi là quân tử biết dốc sức vào việc vậy!

Mời các bạn đón đọc Sử Ký II. Liệt Truyện (Hạ) của tác giả Tư Mã Thiên & Phạm Văn Ánh (dịch).