"Tới đây Orlando thức giấc.
Chàng duỗi dài người. Chàng ngồi dậy. Chàng đứng thẳng người, hoàn toàn trần trụi… Không một con người nào, kể từ thuở hồng hoang, trông mê hồn hơn thế. Cơ thể chàng hợp nhất sức mạnh của một gã đàn ông và sự thanh tú của một phụ nữ… Orlando đã trở thành phụ nữ - không thể phủ nhận điều đó… Orlando là một người đàn ông cho tới ba mươi tuổi, sau đó chàng trở thành một phụ nữ và vẫn giữ nguyên giới tính kể từ khi ấy…"
(Trích nội dung tiểu thuyết Orlando)
"Tràn ngập các trang sách là một không khí huyền thoại, thể hiện một dạng tồn tại được cách điệu và nâng cao, không phải cuộc sống thật sự chúng ta vẫn sống, mà giống như một ảo ánh hay một giấc mơ".
TED GIOIA - Nhà phê bình Mỹ
***
Orlando được đánh giá là “bức thư tình dài và quyến rũ nhất trong lịch sử văn học” mà Virginia Woolf dành cho người yêu đồng giới.
Vita Sackville West là nhà thơ, cô có một cuộc hôn nhân dài và hạnh phúc với Harold Nicolson.
Trong khi đó Virginia và người chồng của mình, Leonard Woolf cũng có mối quan hệ vợ chồng khá hòa hợp, nhưng Virginia không có hứng thú tình dục với Leonard. Điều đó cũng không phải bất ngờ, bởi thời đó, những cuộc hôn nhân không có tình dục cũng khá phổ biến.
Virginia Woolf và Vita Sackville West đã tình cờ gặp nhau, và rồi nhanh chóng bị cuốn vào nhau, trở thành tình nhân. Vita là người khá phóng khoáng trong tình dục, và thường xuyên theo đuổi những người phụ nữ khác, nên giữa Woolf và Vita, có thể có một mối quan hệ tình dục say đắm. Nếu mối tình này không diễn ra, Orlando sẽ không được sáng tác.
Sách đề tặng Vita Sackville West, người tình đồng giới
Orlando được đánh giá là “bức thư tình dài và quyến rũ nhất trong lịch sử văn học” mà Virginia Woolf dành cho người yêu đồng giới.
Cuốn sách đã nhanh chóng trở nên nổi tiếng và được độc giả khắp nơi say đắm. Mặc dù, trong lịch sử văn học, Orlando không phải là tác phẩm hư cấu đầu tiên nhắc đến chuyển giới. Hóa thân của Ovid là một tác phẩm vừa trào phúng vừa nghiêm túc về sự biến chuyển của vật thể - đặc biệt là hình hài con người, thành cây cối hay thú vật, hay thần linh biến thành người để theo đuổi tình nhân.
Trong Nghìn lẻ một đêm cũng có cốt truyện và tình huống về chuyển giới và cải trang thành giới tính khác. Shakespeare ưa thích việc giả trang, và vào thời ông, vì phụ nữ bị cấm đóng kịch trên sân khấu nên tất cả các vai phụ nữ đều là trai giả gái. Họ chìm trong những mối tình say đắm cùng nhau, và bản chất chúng đều là những mối tình đồng tính.
Vita Sachville West chính là hình tượng ngoài đời của Orlando. Vita vốn là một người đam mê hóa trang. Cô thường hóa trang thành đàn ông, để tận hưởng sự tự do. Trong cuốn Orlando, Woolf đã “đảo ngược” tình huống đó, khi Orlando trở thành phụ nữ, phải vận những bộ trang phục phức tạp, đã tự mình cảm nhận sự khó chịu mà các cô gái bình thường vẫn hay chịu đựng. Ấy cũng chính là câu chuyện “nữ quyền” Woolf vẫn luôn hướng đến trong các tác phẩm của mình.
Orlando có nhiều chi tiết dựa trên lịch sử của gia tộc Sackvilles, với bối cảnh chủ yếu là Knile House, một trong những biệt thự cổ còn tồn tại ở Hạt Kent, nước Anh. Đến năm 1566, đây là nơi thuộc quyền sở hữu của Thomas Sackville, em họ của Nữ hoàng Elizabeth I, cụ kỵ của Vita Sachville West.
Orlando biến thành phụ nữ khi tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài. Nhưng anh ta đối diện với trạng huống ấy một cách bình thản lạ lùng. Khi chứng kiến bộ dạng của mình trong hình hài một người phụ nữ, anh ta phán: “Khác giới, nhưng cùng một người”.
Từ khi biến thành phụ nữ, cuộc đời anh ấy (cô ấy) bước vào những cuộc phiêu lưu mới, những gặp gỡ mới. Đôi lúc trong những khi chán chường, Orlando vẫn cải trang thành đàn ông, để tìm kiếm niềm hoan lạc chốc lát. Orlando vẫn đi đi về về giữa hai giới tính.
Tìm kiếm tiếng nói riêng cho những người phụ nữ
Sự khác biệt về giới ấy bao hàm những hệ quả về xã hội và pháp luật. Rất nhiều người đàn ông Woolf biết, trong đó có chồng bà, Leonard, và chồng của chị gái Vanessa, Clive Bell, được giáo dục tại Cambridge. Virginia và Vanessa được giáo dục tại gia, hình thức phổ biến cho con gái nhà thượng lưu. Phụ nữ hầu hết không được đi học.
Khi Woolf viết Orlando, hơn 8 triệu phụ nữ tuổi 30 trở lên đã thắng trong cuộc bỏ phiếu cho Nghị định Đại diện cho Nhân dân năm 1918. Với đàn ông, độ tuổi là 21. Năm 1928, khi tiểu thuyết được hoàn thành, mọi phụ nữ trên 21 tuổi đã bình đẳng cùng đàn ông trong các cuộc tuyển cử.
Chưa đầy hai tuần sau khi Orlando được phát hành, Woolf đến Girton cho buổi giảng thứ hai của mình, với cái tên Phụ nữ và Sáng tạo. Tuần trước đó, bà đã có mặt ở Newnham. Woolf tóm tắt lại hai bài giảng của mình thành bài luận nổi tiếng Căn phòng riêng, xuất bản 1929.
Virginia Woolf trăn trở về sự bất công xã hội và kinh tế giữa hai giới tính, bất công bắt nguồn từ phân biệt giới tính được che đậy như những sự thực khách quan của thế giới. Orlando đã mở đường cho những khám phá nghiêm túc và đáng lo ngại về vị thế của phụ nữ. Nhân vật chính dành nhiều năm ròng lấy lại tài sản của mình, và cuối cùng bị tước đoạt một cách hợp pháp sau khi anh tỉnh dậy trong bộ dạng con gái.
Orlando là một nhà thơ - có thể không giỏi cho lắm - nhưng khi là đàn ông, dù bất tài anh ta cũng được đánh giá kỹ. Trong khi những người con gái giỏi nhất có khi không được chú ý. “Nhưng chúng ta phải tiếp tục viết”, bà nói với những cô gái trẻ tại Cambridge, “vì trong 100 năm tới, với căn phòng của riêng mình và tiền của riêng mình, sẽ không còn những giới hạn do phân biệt giới tính lên khả năng của phụ nữ và sức sáng tạo của họ”.
Orlando thường bị phê phán là tác phẩm trào phúng, kém quan trọng hơn Bà Dalloway hay Đến ngọn hải đăng. Nhưng tác phẩm hoàn toàn vượt xa những tác phẩm thời kì của nó trong tranh luận về giới và bình đẳng giới.
Đặt một phép so sánh với cuốn The Well of Loneliness , nhân vật Radclyffe Hall, người thích được gọi là John, là một phụ nữ đồng tính tin rằng: phụ nữ yêu phụ nữ là những người bị sinh ra trong hình hài sai lầm. Điều này đưa đồng tính nữ tới đau khổ suốt đời.
Cuốn tiểu thuyết đó bị cấm tại Anh và đã bị đưa ra tòa. Virginia Woolf đồng ý làm nhân chứng, với niềm tin vào tự do ngôn luận và chống cấm đoán, nhưng e ngại khi phải nói The Well of Loneliness là văn chương. Bà đã đúng khi e ngại, cuốn sách đó không phải văn chương.
Hai tác phẩm, cùng một năm, cùng chủ đề gây tranh cãi. Nhưng Virginia Woolf, vì bà biết viết, biết quyến rũ người đọc, vì bà hài hước, có thể vì bà đang yêu, và phong cách văn của bà bay bổng với sự tự nhiên, duyên dáng, đã thành công trong việc luồn qua những kiểm duyệt.
Trong khi The Well of Loneliness củng cố tất cả những định kiến về giới tính và ham muốn tình dục. Cuốn sách bị cấm. Orlando phá vỡ hết những định kiến ấy, nó lại trở thành sách bán chạy.
***
Orlando, A Biography xuất bản lần đầu vào ngày 11/10//1928 (cũng là thời điểm ở đoạn kết của tiểu thuyết). Virginia Woolf xem tác phẩm này như một sự thư giãn tinh thần, một “writer’s holiday” sau những tác phẩm đòi hỏi khắt khe hơn về cấu trúc, chủ đề như Căn phòng của Jacob, Bà Dalloway, Tới ngọn hải đăng… Tuy nhiên, dù chính tác giả không kỳ vọng, Orlando lại chính là tác phẩm được đọc nhiều nhất của bà, và ngay trong lần tái bản thứ hai, số lượng bản in bán ra là 6.000, gấp đôi so với Tới ngọn hải đăng. Thủ pháp dòng ý thức trong tác phẩm này cũng đi tới chỗ cực kỳ điêu luyện và tinh tế. Và có lẽ chính vì được viết với tình yêu và cảm hứng tột cùng, có thể những vấn đề sâu thẳm nhất về ý nghĩa của cuộc đời, tình yêu và sáng tạo được thể hiện trong Orlando, ở một số khía cạnh nhất định, vượt xa hơn rất nhiều so với các tác phẩm khác của Virginia.
Cho tới nay, nhiều tiểu luận, phê bình và luận văn tiến sĩ cũng đã soi rọi nhiều ánh sáng khác nhau lên tác phẩm, và những tranh luận vẫn còn tiếp diễn, dù nói chung tất cả các văn bản này đều xem Orlando là một tác phẩm “avant-garde” về nữ quyền và tình dục đồng giới nữ.
Trước khi đọc Orlando, một tiểu thuyết hay tiểu sử giả cách (fake biography), có lẽ các độc giả cũng cần biết qua hai yếu tố sau:
Thứ nhất, tác phẩm này được đề tặng cho V. Sackville-West,[1] (sau đây viết tắt là VSW) bạn thân và người tình của Virginia Woolf.[2] Theo lời của Nigel Nicholson[3], con trai của VSW, đây là “lá thư tình dài nhất và dễ thương nhất trong văn học, trong đó [Virginia] khám phá Vita… đẩy bà từ giới tính này sang giới tính khác… buông một màn sương mù xung quanh bà.”[4] VSW cũng là nguyên mẫu của nhân vật chính Orlando, với một số chi tiết đời thật của bà được hư cấu hóa.
Thứ hai, các chi tiết trong tác phẩm dựa trên lịch sử của gia tộc Sackvilles, và có bối cảnh chủ yếu dựa trên các thực tế về Knole House[5], một trong số ít gia thự cổ và lớn nhất hiện còn tồn tại ở Hạt Kent, Anh Quốc. Knole House được thiết kế theo niên lịch của một năm, gồm 365 phòng (365 ngày), 52 cầu thang gác (52 tuần), 12 cổng vào (12 tháng) và bảy sân trong (bảy ngày trong tuần). Những phần lâu đời nhất của ngôi nhà này do Thomas Bourchier, Tổng Giám mục xứ Canterbury xây dựng vào khoảng giữa 1456 và 1486. Sau nhiều lần đổi chủ, năm 1566, nó thuộc quyền sở hữu của Thomas Sackville[6], em họ của Nữ hoàng Elizabeth I,[7] cụ kỵ của VSW.
Khi viết về Orlando, hầu hết những nhận định của các nhà nghiên cứu và phê bình văn học Âu Mỹ đều nhấn mạnh tới sự táo bạo và đi trước thời đại của Virginia khi xóa nhòa ranh giới của giới tính trong tình yêu; hoặc sự sáng tạo đậm nét trào phúng của bà khi pha trộn giữa phong cách viết tiểu sử và tiểu thuyết, pha trộn giữa hiện thực và những ảo tượng. Những lý luận đó đều na ná như nhau và đều không có gì mới mẻ hay khai phá. Tuy nhiên, Ted Gioia[8] có một cách nhìn mà người dịch thấy khá mới mẻ và thú vị, ông cho rằng Orlando nhìn xa hơn nhiều vào tương lai so với bất kỳ tác phẩm nào trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng. Và ông cũng nhấn mạnh tới dòng văn xuôi đẹp như thơ của tác phẩm: “Nhưng không tóm lược cốt truyện nào có thể đánh giá đúng những phẩm chất đặc biệt của cuốn tiểu thuyết này. Cái mà độc giả sẽ nhớ tới là những tình tiết ly kỳ, sắc thái và bầu không khí. Tôi đọc cuốn sách của Woolf lần đầu trong những năm đại học, sau khi tới tham quan Knole House, một trong những thái ấp miền quê lớn nhất ở Anh Quốc… Trong ký ức của tôi, kết cấu của cuốn tiểu thuyết nhòa vào những sắc màu và hình ảnh của các bức tranh và những tấm thảm thêu ở Knole House. Tràn ngập các trang sách là một không khí huyền thoại, thể hiện một dạng tồn tại được cách điệu và nâng cao, không phải cuộc sống thật sự chúng ta vẫn sống, mà giống như một ảo ảnh hay một giấc mơ. Nhưng ngày nay, khi đọc lại tác phẩm, tôi thu lượm được rất nhiều so với hồi ở lứa tuổi hai mươi. Giờ đây tôi khá quen thuộc với các tác phẩm khác của Woolf, và quay lại với bà vì vẻ đẹp đích thực trong ngôn ngữ của bà cũng như chính bản thân câu chuyện. Trong lịch sử ngôn ngữ Anh, có rất ít nhà văn viết hay hơn, trên nền tảng câu nối tiếp câu, hay đi xa hơn trong việc xóa nhòa các ranh giới giữa văn xuôi và thơ. Nhưng trên hết, ngày nay Orlando nổi bật lên với tư cách một tác phẩm đi đầu, tiên báo cho rất nhiều tiểu thuyết sau này – từ The Left Hand of Darkness cho tới Middlesex – những tác phẩm thể hiện giới tính với sự thay đổi không ngừng thay vì cố định, và đã biến nữ tính và nam tính thành những chủ đề bề mặt thay vì những giả đoán bất định trong tiểu thuyết đương thời.”[9]
Ở đây, nhân tiện, từ gợi ý của Ted Gioia, người dịch chợt nghĩ có khi nào Orlando cũng là tác phẩm đầu tiên đã mở đường cho dòng văn học hiện thực huyền ảo (magic realism) với đại diện lẫy lừng nhất của nó là García Márquez hay chăng?
Ở các tác phẩm khác của Virginia Woolf, thời gian và cái chết thường là một nỗi ám ảnh, một yếu tố can thiệp thô bạo vào đời sống hàng ngày, nhưng với Orlando, bà đã phá tan quyền lực tuyệt đối của thời gian và cái chết. Diễn tiến của tiểu thuyết này trải dài qua ba thế kỷ, từ 1588 đến 1928. Với nhân vật chính là Orlando, ban đầu là nam giới, rồi biến thành nữ giới sau một giấc ngủ dài, ở tuổi ba mươi, và dừng lại ở tuổi ba mươi sáu vào thời điểm tác phẩm kết thúc.
Tiểu thuyết này cũng đặt ra những câu hỏi và lời giải đáp cực kỳ tế vi và sâu sắc về ý nghĩa của cuộc sống, tình yêu và sáng tạo. Tình yêu và Sáng tạo hiện ra, song song như hình với bóng, với từng khía cạnh say đắm, chán chường, ê chề, lố bịch, và cuối cùng là sự chấp nhận, sự tuân phục theo sức mạnh vô hình của “thời đại” trong cuộc đời kéo dài dằng dặc hơn ba trăm năm của Orlando.
TÌNH YÊU
Chàng, với tư cách một người đàn ông, đã yêu đắm đuối Sasha, Công chúa nước Nga, và bị phụ tình. Chàng bỏ chạy khỏi nước Anh, sang làm Đại sứ ở Constantinople để thoát khỏi sự theo đuổi của Harriet, một nàng công chúa người Roumania vô duyên, kệch cỡm.
Sau một giấc ngủ dài, chàng bỗng biến thành phụ nữ, và sống lang thang phiêu bạt cùng một bộ lạc dân du mục (quãng thời gian này khoảng chừng một thế kỷ).
Rồi tình yêu quê hương trỗi dậy, nàng quay lại Anh. Sau một thời gian ẩn dật, nàng cảm thấy phải trở lại London. Ở đây, nàng lại bị theo đuổi lần nữa bởi Hoàng tử Harry (tức Công chúa Harriet), kẻ trước kia đã cải trang thành phụ nữ để tán tỉnh nàng, vì lúc đó nàng còn là một nam thanh niên. Tình yêu với nàng trở thành một trò đùa, nhưng nàng vẫn cần có tình nhân, bất kể nam hay nữ, vì thỉnh thoảng nàng lại cải trang thành đàn ông để du hí tìm vui. “Cuộc sống và một tình nhân,” đó là ý nghĩa của đời nàng. Sau đó, chán những mối tình hời hợt, có cũng như không, nàng lại trở về ngôi nhà ở quê hương. Rồi cuối cùng nàng nhận ra mình phải tuân theo thời đại, phải có một ông chồng. Nàng gặp Shelmerdine, một gã khoái lãng du giữa trùng khơi sóng dữ; hai người yêu nhau nhanh hơn chớp giật. Nàng kết hôn với chàng. Nhưng gió Tây nam nổi lên, chàng lại nổi máu hải hồ, dong buồm đi rong ruổi ở khu vực Mũi Sừng. Nàng lại sống một mình, có chồng cũng như không. Rồi một đêm chồng nàng quay trở lại, đó cũng là kết thúc của câu chuyện hơn ba trăm năm trôi nổi với tình yêu của Orlando.
SÁNG TẠO
Ở đầu câu chuyện, chàng thiếu niên mười sáu tuổi đã nhận ra sự khác biệt giữa ngôn ngữ và thực tại: “Tuy nhiên, cuối cùng chàng dừng bút. Chàng đang mô tả thiên nhiên, như tất cả mọi nhà thơ trẻ tuổi xưa nay luôn mô tả, và để tìm một sắc xanh chính xác, chàng nhìn vào (và ở đây chàng tỏ ra táo bạo hơn hầu hết mọi người) chính bản thân sự vật đó; ấy là một bụi nguyệt quế mọc bên dưới cửa sổ. Sau đó, dĩ nhiên, chàng không thể viết nữa. Màu xanh thiên nhiên là một chuyện, màu xanh trong văn chương lại là chuyện khác. Dường như thiên nhiên và những con chữ có một ác cảm tự nhiên với nhau; cứ đưa chúng tới gần nhau và chúng sẽ xé nhau thành từng mảnh. Sắc xanh lúc này Orlando trông thấy đã phá hỏng mất vần và nhịp của chàng.” (Chương I)
Sau khi bị Nick Greene mang ra làm trò cười trong một bài thơ trào phúng, Orlando, lúc này là một thanh niên, cảm thấy chán ghét giới văn nghệ sĩ tiếng tăm. Giờ đây những mộng tưởng của chàng về tình yêu, về thi ca đã tan hoang sụp đổ:
“Như vậy, ở tuổi ba mươi, hay khoảng đó, chàng quý tộc trẻ tuổi này không chỉ có mọi kinh nghiệm mà cuộc sống đã mang tới, mà còn nhìn thấy sự vô giá trị của tất cả những kinh nghiệm đó. Tình yêu và tham vọng, phụ nữ và những nhà thơ, tất cả đều hão huyền như nhau. Văn học là một vở hài kịch trớ trêu. Cái đêm sau khi đọc tác phẩm “Tới thăm một quý tộc ở miền quê” của Greene, chàng gom năm mươi bảy sáng tác thơ đốt trong một đống lửa lớn, chỉ giữ lại “Cây Sồi”, vốn là giấc mơ trẻ con của chàng và rất ngắn. Giờ chỉ còn lại hai thứ mà chàng đặt hết mọi niềm tin vào đó: những con chó và thiên nhiên; một con chó săn Na Uy và một bụi hoa hồng. Thế giới, trong toàn bộ sự đa dạng của nó, cuộc sống trong toàn bộ sự phức tạp của nó, đã thu nhỏ thành hai thứ đó. Lũ chó và một bụi hoa là toàn thế giới.”
Sau rất nhiều suy tư và tự vấn, cuối cùng chàng đã đi tới một kết luận cho mình:
“Suốt một hồi lâu chàng chìm vào những ý nghĩ sâu xa như giá trị của sự vô danh, và niềm vui của việc không có tên tuổi, giống như một lượn sóng quay về với thân thể sâu thẳm của biển khơi; suy nghĩ về cách thức sự vô danh giải thoát tâm hồn khỏi sự quấy rầy của lòng ganh ghét và thù hằn; cách thức nó tạo ra trong huyết mạch dòng chảy tự do của sự khoan dung và lòng cao thượng; và cho phép người ta cho đi hoặc đón nhận mà không cần tới những lời cảm tạ hay ca ngợi; hẳn đó phải là cách thức của tất cả những thi sĩ lớn, chàng nghĩ (dù kiến thức của chàng về Hy Lạp không đủ để chàng khẳng định), bởi lẽ, ắt hẳn Shakespeare phải viết như thế, những người thợ xây dựng nhà thờ đã xây dựng như thế, không cần lời cám ơn hay tên tuổi, mà chỉ cần công việc của họ vào ban ngày và có lẽ một cuộc chè chén vui vẻ lúc đêm về… ‘Đó thật là một cuộc sống đáng ngưỡng mộ biết bao!’ Chàng nghĩ, duỗi thẳng tứ chi ra bên dưới táng sồi. ‘Và vì sao không tận hưởng nó ngay khoảnh khắc này?’ Ý nghĩ này xuyên qua chàng như một viên đạn. Tham vọng rơi xuống như một hòn chì ở đầu dây dọi. Thoát khỏi quả tim bỏng cháy vì tình yêu bị khước từ, thoát khỏi sự trách móc của thói phù hoa, và tất cả mọi gai góc dưới cái đáy tổ cuộc đời từng châm chích chàng đau buốt khi chàng còn giữ lòng tham danh vọng, nhưng không thể nào động chạm tới một kẻ không màng tới vinh quang; chàng mở mắt ra, vốn dĩ chúng vẫn mở to trong mọi lúc nhưng chỉ nhìn thấy những ý nghĩ, và nhìn thấy ngôi nhà, nằm trong thung lũng nhỏ bên dưới chân chàng.”
Trong cuộc nổi dậy ở Constantinople, chàng ngủ một giấc dài và khi tỉnh lại nhận ra mình đã trở thành một phụ nữ, một cách thản nhiên và lãnh đạm.
Nàng đi theo một ông già du mục, rời khỏi thành phố và tới sống với những người dân du mục lang thang, tiếp tục sửa chữa, bổ sung cho tập thơ “Cây Sồi” với phương tiện vô cùng hạn hẹp: mực làm từ quả mọng, không có giấy nên nàng buộc phải viết bên lề và chen vào giữa những dòng đã viết trước đó. Tình yêu đối với thi ca là đốm lửa chập chờn nhưng không hề tắt trong quả tim nàng. Sau đó, khi đã trở lại Anh, nàng sống ẩn dật một thời gian, rồi lại trở lên London hòa nhập vào xã hội thượng lưu, tiếp xúc với giới quý tộc và nghệ sĩ, rồi lại quay trở về quê nhà, sống một cuộc đời bình thản, vẫn luôn suy tư trăn trở với ý nghĩa của cuộc sống, thi ca. Rồi một hôm nàng hoàn thành tập thơ, kết thúc một tác phẩm đã được bắt đầu và viết đi viết lại suốt hơn ba trăm năm. Văn phong của nàng đã trưởng thành chín chắn, tài năng của nàng rốt cuộc đã lên tới đỉnh điểm của nó trong tập “Cây Sồi”, và nàng chợt nhận ra một điều:
“Cuốn bản thảo thơ nằm bên trên quả tim nàng bắt đầu cựa quậy và đập thình thịch như thể nó là một sinh vật, và điều kỳ lạ hơn nữa, cho thấy có một sự đồng cảm tuyệt vời giữa họ, Orlano, bằng cách nghiêng đầu sang bên, có thể đoán ra ý nghĩa của những gì nó nói. Nó muốn được đọc. Nó phải được đọc. Nó sẽ chết trong lòng nàng nếu nó không được đọc. Bởi đây là lần đầu tiên trong đời mình nàng quay sang chống lại tự nhiên bằng bạo lực. Lũ chó săn Na Uy và những bụi hoa hồng đang quây quần xung quanh nàng. Nhưng không cá thể nào trong số những con chó săn và những bụi hoa hồng có thể đọc. Đây chính là sự sơ sót đáng tiếc của Đấng Hóa Công, điều mà nàng chưa bao giờ nhận ra trước đó. Duy chỉ con người được phú cho khả năng này.”
Nàng trở lên London, gặp lại Greene, giờ đã trở thành một quý ông với nhiều tước vị. Nàng không định đưa tập thơ cho ông ta, nhưng tình cờ tập thơ rơi khỏi ngực áo nàng, Greene đề nghị được đọc, và đã giúp nàng xuất bản nó. Tập thơ được trao giải. Quá trình sáng tạo của nàng chấm dứt. Nhưng thi ca và sáng tạo vẫn quay đi quay lại trong những mộng tưởng của nàng.
Thi ca là cơn mộng mị của nàng, và giống như hình ảnh con ngỗng trời ở cuối truyện, thi ca mãi mãi là cái gì đó sẽ bay ngang qua đời sống và mất hút. Hình ảnh ẩn dụ này rất tiếc không được nhiều nhà phê bình chú ý tới:
“‘Bị ma ám!’ Nàng kêu lên, đột ngột nhấn ga. ‘Bị ma ám! Ngay từ lúc mình còn là một đứa nhóc. Con ngỗng trời bay tới đó. Nó bay ngang qua cửa sổ để ra biển. Mình đã nhảy lên (nàng xiết chặt bánh lái) và với tay theo nó. Những con ngỗng trời bay nhanh quá. Mình đã nhìn thấy nó, ở đây… ở đó… ở đó – Anh, Ba Tư, Ý. Nó luôn bay nhanh ra biển và mình luôn ném theo nó những từ giống như những tấm lưới (tới đây nàng vung tay ra) co rúm lại vì mình đã từng nhìn thấy những tấm lưới co rúm lại trên boong tàu, bên trong chỉ toàn rong biển; và đôi khi có một phân bạc – sáu từ – ở đáy của tấm lưới. Nhưng không bao giờ có con cá to sống trong những rặng san hô.’ Tới đây nàng cúi đầu, trầm ngâm rất mực.”
Và rốt cuộc nàng cũng nhận chân được một điều:
“Lúc đó nàng đã nghĩ tới cây sồi trên đỉnh đồi này, và cây sồi có liên quan gì tới việc này, nàng đã tự hỏi. Sự ca tụng và danh vọng có liên quan gì tới thi ca? Bảy đợt xuất bản (cuốn sách đã bán hết sạch) có liên quan gì tới giá trị của nó? Không phải làm thơ là một công việc ẩn mật, một tiếng nói đáp lại một tiếng nói hay sao? Vậy là tất cả những câu nói rối ra rối rít, ca tụng, trách móc và việc gặp những người hâm mộ lẫn những người không hâm mộ đều không ăn nhập gì với bản thân sự việc – một tiếng nói đáp lại một tiếng nói. Cái gì có thể ẩn mật hơn, nàng nghĩ, chậm chạp hơn, và giống với sự trao tặng nhau của những cặp tình nhân hơn câu trả lời ấp úng mà nàng đã thực hiện suốt bao năm nay để đáp lại bài ca lao xao xưa cũ của cánh rừng, của những nông trại, và lũ ngựa nâu đang đứng ở cổng, cổ kề bên cổ, và lò rèn, nhà bếp, và những cánh đồng đang nhọc nhằn nuôi dưỡng những cây lúa mì, những cây cải củ, cỏ, và những đóa hoa diên vĩ và bối mẫu đang bung nở trong vườn?”
Người dịch xin được kết thúc phần giới thiệu tại đây. Rất mong các bạn đọc tìm được nhiều giá trị khác của tác phẩm Orlando từ bản dịch này. Trân trọng.
Sài Gòn, tháng 03/2016
Nguyễn Thành Nhân
Mời các bạn đón đọc Orlando của tác giả Virginia Woolf.