An Nam Truyện – Ghi chép về Việt Nam trong chính sử Trung Quốc xưa là tập hợp các ghi chép về Việt Nam trong 17 bộ chính sử xưa của Trung Quốc, bao trùm một khoảng thời gian dài, từ thời nhà Tần, Hán đến năm 1911, khi cuộc Cách mạng Tân Hợi chấm dứt triều đại phong kiến cuối cùng ở nước này. Đồng thời, ngoài những ghi chép trực tiếp về vùng đất Việt cổ được biết đến với tên gọi Giao Chỉ, An Nam… thì những ghi chép về các vương quốc xưa đến nay tuy không còn mà đã là một phần của lãnh thổ Việt Nam hiện đại như: Chiêm Thành, Phù Nam, Chân Lạp… cũng được chọn dịch và ghi chép vào sách này để bạn đọc có thêm tư liệu về lịch của các vùng đất ấy trong tiến trình chung của lịch sử Việt Nam
***
Những nội dung trong An Nam truyện mang lại cảm giác khách quan khi đọc các dữ kiện về lịch sử nước ta. Một số sự kiện được đặt trong mạch ghi chép của tác giả Trung Quốc có thể xem như một dịp để tiếp cận lịch sử theo hướng khác.
Giới nghiên cứu vẫn không ngừng thắc mắc rằng chính sử quan phương của Trung Quốc ghi chép về Việt Nam như thế nào.
Và trước nay chúng ta chỉ được tiếp cận thông qua các nguồn thứ cấp, thường nhiều người chỉ được nghe, được nhắc đến, chứ chưa được đọc một cách đầy đủ.
Theo Sách Tao Đàn, chính điều này đã làm phát sinh ý tưởng: đặt dịch giả Châu Hải Đường thực hiện một bộ sách để giải đáp thắc mắc trên. Kết quả là công trình An Nam truyện ra đời.
Dịch giả Châu Hải Đường đã bỏ công tỉ mẩn đọc và lọc từ trong 17 bộ sách sử của Trung Quốc, tìm lấy những chuyện, những phần ghi có liên quan đến Việt Nam (nước ta với nhiều tên gọi qua nhiều thời kỳ: Giao Chỉ, Giao Châu, An Nam, Nam Việt…) để chuyển ngữ thành bộ sách này.
Cho nên, đây chính là một phần tư liệu có ích cho những ai muốn tìm hiểu lịch sử nước ta được ghi nhận dưới cái nhìn của sử gia Trung Quốc.
Người Trung Quốc có truyền thống chép sử, và đây chỉ là những phần có "dính dáng" tới Việt Nam trong 17 đầu sách của Trung Quốc: Sử ký, Hán thư, Hậu Hán thư, Tam quốc chí, Tấn thư, Tống thư, Nam Tề thư, Lương thư, Trần thư, Tùy thư, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tân Ngũ đại sử, Tống sử, Nguyên sử, Minh sử, Thanh sử cảo.
Lần tìm trong cổ sử để soạn thành sách cho người đọc hôm nay, việc ấy nhiêu khê và có không ít khó khăn. Dịch giả Châu Hải Đường chia sẻ:
"Đây là sách được yêu cầu dịch từ văn ngôn cổ văn của nguyên bản tác phẩm, nên gặp nhiều khó khăn về ngữ pháp, văn phong cổ như: câu văn thường súc tích ngắn gọn và ẩn chủ ngữ… Khi dịch, trong nhiều trường hợp, người dịch phải bổ sung chủ ngữ cho câu văn thêm dễ hiểu và rõ nghĩa hơn.
Thêm vào đó khi dịch cổ sử, đòi hỏi phải tham cứu từ rất nhiều tác phẩm để chọn lựa biên dịch, đồng thời đòi hỏi có độ chính xác cao hơn về tiêu chuẩn "tín" trong dịch thuật, chính vì vậy người dịch phải thận trọng và cẩn thận bám sát với văn bản gốc, dùng từ và phiên âm địa danh phải tra cứu rất nhiều.
Dĩ nhiên văn bản không thể không có sai sót, nhưng rất mong được bạn đọc thiện chí góp ý cổ vũ để người làm sách có thể đưa thêm nhiều sử liệu về Việt Nam từ các nguồn ngoại lai được phổ biến".
Chẳng hạn câu chuyện Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán trong sử nước ta là rất quan trọng bởi đây là sự kiện đánh dấu mốc kết thúc thời kỳ Bắc thuộc để nước ta bước vào giai đoạn độc lập.
Thế nhưng sẽ rất khó tìm thấy sự kiện này trong An Nam truyện, bởi nó chỉ được nhắc rất khiêm tốn trong bộ Tân Ngũ đại sử, ở phần "Nam Hán thế gia".
Đọc sử nước ta từ những trang ghi chép của Trung Quốc như vậy, có thêm một điều thú vị, là cái nhìn về lịch sử nước nhà bấy lâu nay hình thành từ bài học giáo khoa, từ sách vở trong nước sẽ dần dần được mở ra thêm những chiều kích mới.
Có khi sẽ nhận ra từ những mảnh rời trong sách sử "người ta" mà nhiều nhà viết sử nước ta đã đặt để xếp thành hệ thống, làm nên mạch sử nước nhà…
Có như vậy, mới thấy công sức của các thế hệ sử gia Việt Nam thời xưa cũng lao tâm khổ trí như thế nào, trong điều kiện sách vở tài liệu hạn chế, vẫn biên soạn được những trang lịch sử quan yếu, ghi lại được quá trình hình thành dân tộc và con đường lập quốc hào hùng, điều mà trong nhiều thời kỳ ở vị thế đối đầu, sách sử Trung Quốc vẫn ghi nhận nhưng tất nhiên không hề giống như sách sử của ta.
Chẳng hạn ở quyển An Nam truyện này, đọc phần ghi chép trong bộ Nguyên sử sẽ rất khó hình dung vua tôi nhà Trần đã đại thắng quân Nguyên oanh liệt như thế nào!
"Thanh Sử cảo có đoạn chép như sau: "Thời, Nguyễn Huệ huynh đệ diệc khấu quan thỉnh cống, dĩ kỳ quốc thần dân biểu chí ngôn: Lê Duy Kỳ bất tri tồn vong, thỉnh lập cố vương Duy Đoan chi tử ông hoàng tư Duy Cẩn chủ quốc sự …"Đây là dòng chữ Nôm trong bộ Thanh sử cảo mà dịch giả Châu Hải Đường xem như một ca thú vị
(Bấy giờ, anh em Nguyễn Huệ cũng đến cửa quan xin cống, đem biểu của thần dân trong nước đến, nói Lê Duy Kỳ không biết còn sống hay đã chết, xin lập con của cố vương Duy Đoan là "ông hoàng tư Duy Cẩn" làm chủ việc nước …) (An Nam Truyện - trang 138)
Có thể thấy cụm "ông hoàng tư Duy Cẩn" là một cấu trúc Nôm, được các tác giả Thanh Sử cảo chép nguyên văn từ biểu tấu vào mà không qua dịch lại sang Hán văn.
Phải chăng người thông ngôn đã không hiểu rõ lắm để dịch lại? Hay là trong biểu tấu dùng Hán văn, nhưng cụm từ ấy lại dùng chữ Nôm, nên các nhà viết sử cũng bê cả cụm chữ Nôm ấy vào sách?
Dù là thế nào đi nữa, thì vẫn có thể thấy rõ, Nguyễn Huệ đã dùng (một phần hay toàn bộ) chữ Nôm trong biểu tấu dâng thiên triều, chứ không viết hoàn toàn chữ Hán".
Sách còn một phần phụ lục nhưng rất quan trọng, đó là những ghi chép về Chiêm Thành, Phù Nam, Chân Lạp. Đây chính là những nội dung liên quan đến lịch sử Việt Nam nhưng tư liệu thành văn lâu nay rất thiếu thốn.
Nguồn ghi chép từ Trung Quốc về mảng này vẫn là tư liệu tham khảo đắc dụng của các nhà nghiên cứu cả phương Đông và phương Tây lâu nay. Cho nên, cái nhìn từ bên ngoài đối với các sử kiện Việt Nam chắc chắn sẽ mang lại nhiều cảm hứng cho giới quan tâm đến lịch sử, các nhà nghiên cứu và cả những bạn trẻ Việt Nam yêu sử hôm nay.
Mời các bạn đón đọc An Nam Truyện của tác giả Châu Hải Đường (dịch và biên soạn).