Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Việt Nam Phong Tục

Mỗi nước có một phong tục riêng. Phong tục ấy kỳ thuỷ hoặc bởi tự một vài người mà rồi bắt chước nhau thành ra thói quen. Hoặc bởi ở phong thổ và cách chính trị, cách giáo dục trong nước mà thành ra. Hoặc bởi các phong trào ở ngoài tràn vào rồi mà dần dần tiêm nhiễm thành tục. Nhưng đại để tục gì cũng vậy, phải trải lâu tháng lâu năm mới thành được, mà trong những tục ấy cũng có tục hay, cũng có tục dở. Duy chỉ bởi tai mắt người đã quen, lòng người đã tin dùng, thì dẫu có người biết là dở mà cũng không sao đổi ngay đi được.
Sách gồm các nội dung sau:

- Nói về phong tục trong gia tộc
- Nói về phong tục hương đảng
- Phong tục xã hội

***

Phan Kế Bính (1875 – 1921), hiệu là Bưu Văn, bút hiệu Liên Hồ Tử, là một nhà báo, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ 20.

Phan Kế Bính quê ở làng Thụy Khê, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phố Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội). Năm Bính Ngọ (1906), Phan Kế Bính dự thi Nho học và đỗ Cử nhân, nhưng không ra làm quan, mà ở nhà dạy học. Trong thời gian này, ông công khai hưởng ứng phong trào Duy Tân, nhưng không trực tiếp chỉ đạo. Từ 1907, ông bắt đầu viết báo cho nhiều tờ báo trong nước, trong vai trò là một trợ bút, chủ yếu là dịch thuật, biên khảo sách chữ Hán. Sau đó ông lần lượt cộng tác với các tờ báo: Ðông Dương tạp chí, Lục tỉnh tân văn, Trung Bắc tân văn. Đặc biệt là với tờ Đông Dương tạp chí, ông có thời gian làm trong ban biên tập Đông Dương tạp chí, và tác phẩm của ông phần lớn đều từng đăng trên tạp chí này.

Tác phẩm

Các sách biên khảo:

"Việt Nam phong tục" (1915): nghiên cứu nghiêm túc, có tính phản biện, về thuần phong mỹ tục của Việt Nam;

"Hán Việt văn khảo" (1918): bàn về văn chương chữ Hán ở Trung Quốc, Việt Nam và triết học Trung Quốc;

Các sách viết về danh nhân Việt Nam: "Nam hải dị nhân" (1909), "Hưng Đạo Đại vương" (1912).

Sách dịch thuật:

"Đại Nam nhất thống chí" (1916);

"Ðại nam điển lệ toát yếu" (1915 - 1916);

"Việt Nam khai quốc chí truyện" (1917);

"Đại Nam liệt truyện tiền biên" (1918);

"Ðại Nam liệt truyện chỉnh biên" (1919);

Đặc biệt là bộ "Tam quốc chí diễn nghĩa" dịch chung với Nguyễn Văn Vĩnh.

Phan Kế Bính mất lúc mới 46 tuổi vào năm Tân Dậu (1921).

Tên của ông hiện được đặt cho một con đường ở phường Cống Vị quận Ba Đình Hà Nội, cắt vuông góc với đường Liễu Giai. Ngày 29 tháng 5 năm 2005, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã tổ chức Lễ tưởng niệm 130 năm ngày sinh và 85 năm ngày mất của ông.

***

Cha mẹ: Hai tiếng cha mẹ, nước ta mỗi nơi gọi cũng hơi khác nhau: Nơi thì gọi là BốĐẻ, nời thì gọi là ThầyU. Về đường ngược ( Hưng hóa) thì gọi mẹ là Bầm, về đường trong thì gọi là Bu. Nam kì thì gọi cha là Tía, mẹ là . Ở đây, bây giờ lại nhiều người cho con gọi cha là Ba, gọi mẹ là Me. Còn các nhà hiếm hoi thì chẳng cứ gì, người thì cho con gọi là Chú, Thím, người thì cho con gọi là Anh, Chị, Cậu, Mợ. Ngày xưa lại có tiếng gọi mẹ là Cáinữa, tiếng ấy thì bây giờ không đâu dùng

Sinh con: Đàn bà có mang ai cũng muốn sinh con trai mà ít người muốn sinh con gái. Hàng xóm bà con nghe thấy sinh con trai thì mừng. Trong khi có mang, váng đầu, đau mình thì gọi là ốm nghén; hay thèm ăn của chua, của chát gọi là ăn dở. Đến lúc sinh sản, mời bà tắm đến đỡ, con xổ ra rồi thì cắt rốn chôn nhau. Chôn phải sâu, nếu chôn nông thì con hay bị trớ, mà phải tránh chỗ giọt gianh ( chỗ nước mưa mái nhà nhỏ xuống – Yahoo) kẻo về sau con chốc đầu toét mắt

Người mẹ thì phải kiêng khem gió máy, phải nằm than. Ăn cơm thì phải ăn muối hấp hoặc nước mắm chưng, vài ba hôm mới dám ăn đến thịt. Đầy cữ, ( con trai 7 ngày, con gái 9 ngày) xông muối xoa nghệ rồi mới dám ra đến ngoài

Nhà nghèo nuôi con lấy, nhà giàu nuôi vú cho con. Có người cho vú đem về nhà nuôi. Cho bú độ ba bốn tháng thì cho ăn cơm và vẫn cho bú đến độ ba, bốn tuổi mới thôi

Con nhà nào ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chin tháng lò cò chạy chơi, là hợp vào ca thi, dễ nuôi mà mai sau làm nên ngươi

Tục ta hỏi thăm nhau đẻ con trai hay là con gái, người có chữ thường nói lộng chương hay lộng ngõa ( nghĩa là chơi ngọc hay chơi ngói). Điển ấy do ở Kinh Thi: sinh con trai thì quí hóa mà cho chơi bằng hạt ngọc, sinh con gái thì khinh bỉ mà cho chơi bằng hòn ngói. Lại có người hỏi huyền hổ hay huyền cân ( nghĩa là treo cung hay là treo khăn mặt). Điển ấy cũng do tục Tàu: để con trai thì treo cái cung ngoài cửa, mà đẻ con gái thì treo cái khan mặt. Ta dùng điển mà hỏi thăm chứ ta không có cái tục ấy

Cúng mụ: Trong sách Bắc Hộ Lục có nói rằng Tục Lĩnh Namnhà giàu đẻ con được ba ngày, hoặc đầy tháng thì tắm cho con, làm một bữa tiệc gọi là đoàn du phạn (nghĩa là bữa cơm tròn trặn trơn tru). Sách Vân đài loại ngữ của ông Lê Quí Đôn thì nói rằng: Tục nước ta đẻ con được ba ngày, làm vài mâm cỗ cúng mụ. Đến hôm đầy tháng, hôm một trăm ngày, hôm đầy tuổi tôi đều có làm cỗ cúng gia tiên, bày tiệc ăn mừng. Bà con, người quen thuộc dùng thơ, câu đối, đồ chơi, đồ quần áo trẻ để mừng nhau. Mà nhất là tiệc một trăm ngày và tiệc đầy tuổi to hơn cả

Cứ như tục thành phố Hà Nội bây giờ đẻ con ra đầy cữ, đầy tháng đầy tuổi tôi, mới làm cỗ cúng mụ. Trong lễ cúng thì dùng mười hai đôi hài, mười hai miếng trầu cau, cua ốc, nham, bánh đúc v.v…Vì tin rằng có mười hai bà mụ nặn ra người

Thử con: Tàu có tục đẻ con đầy một năm thì làm một tiệc thử con. Hôm ấy tắm rửa cho con sạch sẽ, mặc quần áo mới, con trai thì bày đồ cung tên giấy bút, con gái thì bày đồ kim chỉ dao kéo. Lại bày những đồ chơi quí báu ở trườc mặt đứa trẻ để nghiệm xem nó tham liêm ngu trí làm sao, chữ gọi là tiệc thí nhí ( thử trẻ). Các nhà đại gia ở ta cũng theo tục ấy, nhưng chỉ bày ít món đồ ấn triện cung tên, bút mực, cày bừa, gọi là trong bốn món văn, vũ, canh , độc để nghiệm đứa trẻ mai sau làm gì thôi

Thuật kiêng cữ: Con nhà nào sinh phải giờ con sát, hay phải giờ kim xà thiết tỏa, sợ mai sau khó nuôi thì cúng đổi giờ. Nhà nào sinh con muộn mằn sợ khó nuôi thì làm lễ bán cửa tĩnh hoặc là bán cửa chùa nào cho con làm con Thánh con Phật gọi là bán khoán. Bán cho cửa tĩnh thì thờ Đức Thánh Trần, bán cho nhà chùa thì đổi họ gọi là họ Mâu, đến mười hai tuổi mới làm lễ chuộc về làm con mình

Đưa con cho người khác bế, không được đưa qua cửa, mai sau sợ con đi ăn cắp ăn trộm. Ẵm con đi đâu phải bôi ít nhọ chảo trên trán hoặc cầm con dao, cái kéo hay là chiếc đũa đi theo, kẻo sợ người ta quở quang

Con hay khóc đêm, gọi là dạ đề thì mượn một người khác lấy cái cọc chuồng lợn ném xuống gầm giường thì khỏi khóc. Có người lạ vào, con khóc mãi không thôi thì lấy một bó lửa ném vào trước mặt người ta thì con thôi khóc

Con ngủ li bì không dậy, lấy vài cái tóc mai của người ngoài phẩy vào miệng đứa trẻ thì khỏi

Con hay trớ, lấy nước lòng đò cho uống thì khỏi

Con nấc, lấy ngọn của lá trầu không dán vào chỗ trán cho nó. Con ngủ giật mình, luộc một cái trứng gà, con trai cắt thành bảy miếng, con gái chin miếng và bảy hay chín nắm cơm, hú vía cho nó rồi cho nó ăn thì nó khỏi sợ

Con đau bụng khóc lắm, mượn người nhổ bão (nhổ cục tóc trên đầu) cho mẹ nó thì khỏi

Con lòi rốn, mượn kẻ ăn mày cầm gậy chọc vào rốn nó thì khỏi

Con chơi phải chỗ cỏ ngứa, nổi mẩn tịt cả mình mẩy gọi là ma tịt, thì ngửa một cái nón mê ( nó lá cũ – yahoo), tễ bảy hoặc chím miếng trầu lá lốt cúng ông Cầu bà Quán cho nó thì khỏi

Con lên đậu, ngoài cửa treo một bó vàng và trồng một cây lá ráy vào một cái nồi đất ở trước cửa, hoặc cài một cành kinh giới để giữ cho con được bình yên

Con hắt xì hơi thì nói: Sống lâu tram tuổi, già đầu, thượng thọđể chúc thọ cho con

Con quặt quà quặt quẹo thì bế đứa con đưa qua cái săng người già chết thì nó được sống lâu

Cáh đặt tên:

Con mới sinh ra thì thường gọi là thằng đỏ con đỏ, ở về nhà quê thì thường gọi là thằng cu con đĩ, ở về vùng quê Thanh Nghệ thì thường gọi là thằng cò con hĩm chứ không mấy người mới sinh ra đã đặt tên. Đặt tên thì nhà thường dân hay bạ tên gì đặt nấy, hay lấy vần hoặc lấy nghĩa gần nhau với tên cha mẹ mà đặt. Ví như cha mẹ tên Lần thì đặt tên là Thần, cha mẹ là Nhăng thì đặt là Nhố, hoặc cha mẹ là Đào thì đặt là Mận, cha mẹ là Sung thì đặt con là Vả v.v. Kẻ hiếm hoi thì thường lấy tên xấu xí mà đặt cho con, như gọi là thằng Cún ( con chó cún) thằng Đực ( con chó đực) v.v. Nhà có học thì thường kiếm những tên đạp đẽ mà đặt cho con, mà nhất là hay tìm từng bộ chữ Nho. Ví như người dung toàn một bộ chữ Ngọc, như anh là Hoàng thì em là Hành, là Cư, là Vũ, ngừoi thì dung bộ chữ Thủy như anh Giang thì em là Hoài là Tế v.v

Cho con đi học: Nhà nho gia cho con độ năm, sáu tuổi, nhà thường dân cho con độ mười một mười hai tuổi thì cho con đi học. Người biết chữ thì dạy lấy, hoặc mời ông thầy trong làng, lúc mới học thì phải biện lể giầu, rượu, con gà ván xôi để ông thầy làm lễ Thánh sư, rồi dạy vỡ lòng cho con dăm ba chữ hoặc bảy tám chữ, dần dần mới lại kén thầy mà học rộng mãi ra. Con gái thì ít người cho đi học, mà có cho đi học đủ biên sổ sách và biết tính toán mà thôi. Về phần nhà nghèo tì con lên bảy, tám tuổi còn phải ở nhà bồng em, làm đỡ cho cha mẹ, chin mười tuổi đã phải lập nghề làm ăn, không mấy nhà cho đi học

Lo lắng cho con: Con độ tuổi mười bốn, mười lăm tuổi trở lên cha mẹ đã đem lòng lo bề gia thất, con trai thì mong dựng vợ, con gái thì mong dả chồng. Xong việc vợ chồng thì lo đến cách lập thân cho con, ngần nào lo phường lo trưởng, lo nhiêu lo xã, cho con bằng mày bằng mặt với làng nước; ngần nào lo sinh cơ lập nghiệp cho con mai sau có chỗ nương nhờ. Nước ta lắm người đẻ nhiều con thì phải lo hết con này đến con khác, có người lo cả đời chưa hết

Xét cái tục ta, sinh ra con ai cũng biết thương biết mến, biết chăm chỉ nuôi nấng, dạy dỗ cho con nên người, nưng như nưng trứng, hứng như hứng hoa, thực là hết lòng hết dạ. Loài người cũng nhờ có tính ấy mà bảo tồn được chủng loại cho mỗi ngày được sinh sối nảy nở thêm ra, thì lòng nhân từ ấy rất là hay lắm. Nhưng chỉ hiềm ta khi xưa chưa hiểu cách vệ sinh, trong khi sinh sản, nào nằm than, uống nước tiểu, đấy là một cách làm cho sinh bệnh, không trách đàn bà ta nhiều người sinh ra hâu sản mà ốm mòn. Đến lúc nuôi con thì lại hay tin những điều nhảm nhí, không có bậc triết học nào mà triết hết những sự huyền hão ấy. Cho đi học, không có qui củ cách thức nào, còn phần nhiều thì học năm mười năm thì dốt vẫn hoàn dốt, cho nên trong nước một tram người mới được một hai người biết chữ, cũng chỉ vì cách dạy dỗ không tiên liệu đấy thôi

Đến lúc con lớn thì lại lo thay cho con quá. Mà nào lo có ra lo, lo những ngôi thứ trong làng, lo những danh phận vô ích, chứ nào có lo nên một bậc ngừoi gì, hay là thành được một nghề gì đâu. Cái lo lắng ấy, hẳn sinh ra lười biếng, hay ăn chơi. Cho nên lắm người, đời cha mẹ hàn gắn chắt chiu, làm nên giàu có, mà đến đời con thì chỉ ăn chơi chỉ phá chẳng bao lâu mà hết nhẵn như không

Cứ như Âu châu, khi sinh sản, các bà đỡ, cô đỡ chuyên môn đến đỡ, có thuốc có thang, ăn uống sạch sẽ

Khi còn thơ ấu, nuôi nấng có điều có độ, từ lúc cho bú, lúc nào cho ngủ, lúc cho chơi cũng có thì giờ, thực là hợp với cách vệ sinh. Khi biết học thì cho vào trường học, dạy dỗ có thứ tự, có khuôn phép. Đến lúc khôn lớn, mặc ý cho mà lập thân, không cần gì phải lo lắng thay cho nữa. Bởi vậy, con ít tật bệnh, mà nhiều người thông thái, lại gây cái tính tự lập cho con

Ít lâu nay, ta cũng có nhiều người nhiễm theo thói Âu châu, trong cách sinh sản, nuôi nấng, cũng đã đổi bỏ thói cũ, có lẽ về sau cũng theo nhau mà đổi được hết

Nghĩa anh em: Anh em cùng cha cùng mẹ đẻ ra gọi là anh em đồng bào, anh em cùng cha khác mẹ gọi là anh em dị bào, nhưng tổng chi gọi là anh em ruột cả, còn anh em cùng mẹ khác cha gọi là anh em đồng mẫu dị phụ, anh em ấy không thân thiết gì mấy, cũng như người ngoài mà thôi

Anh em cùng một mẹ đẻ sinh ra, thì cứ theo thứ tự đẻ trước là anh, đẻ sau là em. Nhiều mẹ, thì con vợ cả là anh, con vợ lẽ là em, không cứ gì nhiều tuổi hay ít tuổi. Cũng có nhà lấy vợ hầu trước, dù có đẻ con cũng không được gọi là con cả, khi nào kén được người chính thất, đẻ con mới là con cả, cũng có nhà, bất cứ là vợ nào, hể đẻ trước gọi là anh, đẻ sau gọi là em

Anh em cốt lấy tình thân ái làm đầu, lá lành đùm lá rách, bênh vực giúp đỡ lẫn nhau. Ta vẫn thường cho anh em ăn chung ở lộn với nhau, hòa mục với nhau là cách vui vẻ, là nhà có phúc. Nhưng thường thì anh em phương trưởng, phận ai người đó lo. Nhà phong phú thì cha mẹ lập cho con cơ nghiệp, nhà tầm thường thì ai phải lo thân người ấy, có tư cấp ít nhiều chứ không mấy người ôm ấp đùm bọc lấy nhau được mãi

Quyền lợi: Người anh cả có quyền hơn cả các người em. Cha mất rồi thì người anh là người thay mặt cho cha mà trông nom các em. Em còn thơ bé thì anh phải nuôi nấng, rồi phải lo dựng vợ gả chồng cho em nữa, gọi là quyền huynh thế phụ. Gia sản cha mẹ để lại, cũng người anh cả hưởng phần lợi hơn, mà công việc trong nhà như ma chay giỗ tết, người anh phải chịu phần nặng

Nhưng cũng có khi người con út được hưởng phần lợi cha mẹ để lại nhiều hơn các anh. Vì là anh em trước đã yên phận rồi, còn em út ở với cha mẹ, rồi thì thừa hưởng cái cơ nghiệp ấy. Cho nên có câu tục ngữ rằng: “ giàu con Út, khó con Út, trút sạch cửa nhà

Câu chuyện khuyên anh em thân nhau:

Tục ta có một câu chuyện gọi là chuyện giết chó khuyên chồng: Xưa có một người chồng chơi bời thân thích với một người bạn, nay chè mai chén, ngày kia thuốc phiện, chỉ chơi với bạn mà không biết em là đâu. Người vợ khuyên can mãi chồng mà không được, mới nghĩ ra một kế : một hôm người vợ giết một con chó, cạo lông cho trắng trẻo để trong xó nhà tối. Chồng đi chơi về khuya, vợ nói dối rằng: Hôm nay nhỡ đánh chết một đứa trẻ, để giấu trong buồng, làm thế nào bây giờ? Chồng sợ mất vía, vào xó buồng xem, quả nhiên có một đứa trẻ nằm đó. Chồng bảo gọi em để nhờ em chôn cho. Vợ nói: Xưa nay chàng chơi thân thiết với người bạn, không tưởng đến chú nó, bây giờ có nạn sao nó chịu giúp mình, bất nhược nhờ người anh em bạn còn hơn. Chồng nghe lời, chồng mời bạn đên, nói chuyện đầu đuôi rồi nhờ người bạn chon hộ cho. Người bạn chôn xong, sáng mai lập tức đi báo quan để lập công. Anh ta chỉ dẫn cho quan về tận nơi mà khám. Quan cho đào lên thì là con chó. Hỏi ra thì người vợ thuật chuyện mà nói cái mưu kế của mình cho quan nghe. Chồng từ đó chán người bạn mà thân với em. Câu chuyện tuy tầm thường nhưng cũng làm được cái gương cho anh em

Chị em, chị em dâu, anh em rể: Chị em ở với nhau, cũng có tình thân ái như anh em, có câu rằng “em ngã chị nâng, chị ngã em nâng”, ấy là thường tình của người ta. Còn về phần anh em rể, chị em dâu thì không được thương nhau mấy. Trừ ra nhà có giáo dục, biết lấy lễ nhượng ăn ở với nhau. Còn phần nhiều là hay khủng khỉnh với nhau lắm. Có câu rằng “yêu nhau chị em gái, khái nhau chị em dâu, đánh nhau vỡ đầu là anh em rể” tục ấy cũng là một tục xấu

Anh em, chị em ở nhà lủng củng, gọi là gia đình bất mục. Nhiều người vì một chút lợi gia sản của bố mẹ, đến nỗi xâu xé nhau, đem nhau đi kiện làm cho tán gia bại sản. Thậm chí có nhà cha mẹ chết, quàn ma lại một chỗ để tranh hương hỏa, chờ cho quan xử đoán xong rồi mới cất ma. Tục ấy gọi là đồi phong bại tục, nhà nào suy đốn mới có anh chị em như thế

Anh em, chị em là bát máu xẻ đôi, tình tất thân thiết hơn cả người khác. Trong cách ăn ở, phải yêu mến nhau. Mà muốn cho được hòa mục mãi mãi thì lại cốt lấy chữ nhẫn làm đầu, nghĩa là nhường nhịn nhau, dẫu có kẻ ngang trái, cũng nhịn đi, rồi sẽ lấy lời khôn lẽ phải mà khuyên bảo nhau thì không bao giờ đến nỗi khích bác nhau, mặt lăng mày vực với nhau mà trong nhà vẫn vui vẻ, cha mẹ cũng được thỏa đáng

Nhưng cũng chớ nên mong nhờ lẫn nhau, mong nhờ nhau là một thói ỷ lại, không biết quí sự tự lập, thì là làm cho hư mất nết người. Đã đành anh em nghĩa nên cứu giúp nhau, nhưng cũng phải nghĩ kế tự lập mới được. Chớ có ăn không ngồi rồi, rượu chè cờ bạc để chắc trông cậy về anh em chị em thì là một tính cách rất đê tiện, làm hại lây cho người có chí mà thôi

Mời các bạn đón đọc Việt Nam Phong Tục của tác giả Phan Kế Bính.