Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Biến Động - Các Quốc Gia Ứng Phó Với Khủng Hoảng và Thay Đổi Như Thế Nào?

Bằng những cuốn sách best-seller của mình như Súng, Vi trùng và Thép và Sụp đổ, Jared Diamond đã thay đổi suy nghĩ và sự hiểu biết của chúng ta về những gì đã làm cho các nền văn minh thịnh vượng và suy vong. Với Upheaval – cuốn sách có nội dung chính trị rõ ràng và công khai nhất của mình, ông tiết lộ cách các quốc gia thành công trong việc hồi phục sau khủng hoảng thông qua những thay đổi có chọn lọc – một cơ chế ứng phó phổ biến như cách con người vượt qua những khủng hoảng cá nhân.
Cuốn sách được viết từ một số nghiên cứu về cách xử lý khủng hoảng và hậu khủng hoảng của một số quốc gia. Diamond cho chúng ta thấy sáu quốc gia đã sống sót như thế nào sau những biến động trong quá khứ: Từ câu chuyện của Phần Lan sau chiến tranh với Liên Xô, chế độ độc tài Pinochet ở Chile, cuộc khủng hoảng đứng trước những lựa chọn của Nhật Bản vào thế kỷ 19 đến Indonesia sau cuộc thanh trừng lịch sử dưới thời Suharto, sự phục hồi sau chiến tranh của Đức và câu chuyện tìm kiếm bản sắc hậu thuộc địa của Úc. Các quốc gia này đã đối phó, ở nhiều cấp độ khác nhau, thông qua các cơ chế như thừa nhận trách nhiệm, tự đánh giá một cách trung thực và học hỏi từ các mô hình của các quốc gia khác.
Là một tác phẩm lịch sử chuyên sâu được nghiên cứu trên nhiều góc độ địa lý, sinh học, nhân chủng học và cả tâm lý, Upheaval đã tiết lộ các yếu tố ảnh hưởng đến cách các quốc gia và cá nhân ứng phó với những thách thức lớn và trở nên kiên cường hơn. Kết quả của tất cả những nghiên cứu đa chiều và toàn diện này là một cuốn sách mang tính sử thi, cấp tiến và đột phá.
Yuval Noah Harari, tác giả của “Sapiens – lược sử loài người” đã nhận xét: “Cuốn sách là một trải nghiệm hấp dẫn và khai sáng về cách các quốc gia đối phó với khủng hoảng, điều có thể sẽ giúp nhân loại nói chung đối phó với cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay của chúng ta.”
….
Biến Động: Các Quốc Gia Ứng Phó Với Khủng Hoảng và Thay Đổi Như Thế Nào? - Tựa tiếng Anh: Upheaval: Turning Points for Nations in Crisis)
Trong cuốn sách mới nhất của học giả Mỹ Jared Diamond, Diamond phân tích các cuộc khủng hoảng mang tính huỷ diệt (chính trị, kinh tế, nội chiến, sinh thái,…) có thể tàn phá toàn bộ các quốc gia và những tác nhân nhiều chiều gây ra thảm hoạ.

Để minh chứng cho phân tích của mình bằng những ví dụ của thế giới ngày nay, ông khảo sát những cuộc khủng hoảng trong quá khứ đã xảy ra tại các quốc gia như Nhật Bản, Chile, Đức, Australia và Mỹ… Ông cho rằng cách thức mà mỗi cá nhân học hỏi để vượt qua những chấn thương tâm lí (mất việc, người thân yêu qua đời…), buộc phải lựa chọn những thay đổi để thích nghi cũng có thể được vận dụng cho các quốc gia để đối mặt và vượt qua khủng hoảng.

"Một hành trình hấp dẫn và khai sáng về cách các quốc gia đối phó với khủng hoảng – cũng là những chỉ dẫn quan trọng dành cho nhân loại trước cuộc suy thoái toàn cầu ngày nay.”
- Yuval Noah Harari

"Tôi là một fan hâm mộ lớn của tất cả mọi thứ mà Jared Diamond đã viết, và cuốn sách mới nhất này của ông cũng không ngoại lệ. Diamond cho thấy rằng có một con đường giúp vượt qua khủng hoảng, và chúng ta có thể lựa chọn đi theo."
- Bill Gates

TÁC GIẢ: JARED DIAMOND
Là Giáo sư Địa lý học tại Đại học Los Angeles, Mỹ. Ông được trao tặng nhiều giải thưởng danh tiếng như: Huy chương Khoa học Quốc gia ; Giải thưởng Tyler về Thành tựu Môi trường ; Giải thưởng Cosmos của Nhật Bản ; Học bổng Quỹ MacArthur ; Giải thưởng Lewis Thomas của trường Đại học Rockefeller…

Diamond có nhiều tác phẩm nổi tiếng đã bán ra hàng triệu bản trên thế giới: Sụp đổ; Súng, Vi trùng & Thép; Loài tinh tinh thứ ba; Tại sao tình dục lại thú vị?…

***

NHỮNG TÀN DƯ CỦA VỤ HỎA HOẠN Ở HỘP ĐÊM COCOANUT GROVE

Hai câu chuyện - Biến cố là gì? - Biến cố cá nhân và biến cố quốc gia - Cuốn sách này viết về gì và không viết về gì - Mục tiêu của cuốn sách

Ở một hay những thời điểm nào đó trong đời mình, hầu hết chúng ta đều phải trải qua một biến động hay biến cố riêng tư mà có khi xử lý được, có khi không, nhưng lại làm thay đổi cả cuộc đời. Diễn rộng ra, các quốc gia cũng đều kinh qua những biến cố như vậy, và cũng có khi xử lý được, có khi không, nhưng lại làm thay đổi cả đất nước. Đã có nhiều nghiên cứu và thông tin mang tính giai thoại, do các nhà tâm lý trị liệu đưa ra, về phương cách xử lý những biến cố cá nhân. Vậy những đúc kết đó có giúp chúng ta hiểu được phương cách xử lý những biến cố quốc gia hay không?

Để minh họa cho những biến cố cá nhân hay quốc gia, tôi sẽ bắt đầu với hai câu chuyện của chính bản thân mình. Người ta thường cho rằng những ký ức lâu bền của trẻ em được lưu giữ sớm nhất là ở khoảng độ tuổi lên bốn, dù trẻ nhỏ vẫn lưu giữ những ký ức mờ nhạt về các sự kiện trước đó. Tình trạng chung đó có thể rơi vào trường hợp của tôi, vì ký ức sớm nhất tôi lưu giữ được là vụ hỏa hoạn ở hộp đêm Cocoanut Grove ở Boston, xảy ra ngay sau sinh nhật lần thứ năm của tôi. Mặc dù (may thay) không có mặt trong vụ hỏa hoạn đó, nhưng tôi được nghe gián tiếp từ những lời kể đầy kinh hoàng của ông bố làm bác sĩ.

Vào ngày 28 tháng 11 năm 1942, một đám cháy bùng phát và lan nhanh tại một hộp đêm chật kín người ở Boston tên là Cocoanut Grove (người chủ hộp đêm đặt như vậy) vốn chỉ có duy nhất một lối thoát hiểm nhưng đã bị chặn. Tổng cộng có 492 người chết cùng hàng trăm người khác bị thương, do ngạt thở, hít phải khói, bị dẫm đạp hay bị bỏng (Ảnh 1). Đội ngũ bác sĩ và bệnh viện ở Boston đều quá tải - không chỉ do những nạn nhân bị thương hay sắp chết do vụ hỏa hoạn mà còn do những nạn nhân về mặt tâm lý: những thân nhân quẫn trí vì vợ, chồng, con cái, anh chị em của mình tử vong một cách khủng khiếp; và cả những người sống sót sau vụ cháy bị sang chấn tâm lý vì mặc cảm tội lỗi khi được sống trong khi hàng trăm vị khách phải chết. Cho đến 10:15 tối, cuộc sống của họ vẫn bình thường, chỉ tập trung vào dịp nghỉ cuối tuần đúng lễ Tạ ơn, một trận bóng bầu dục và ngày nghỉ phép của lính tráng thời chiến. Nhưng đến 11:00 tối, hầu hết các nạn nhân đều đã chết, và cuộc sống của những người thân cũng như người còn sống rơi vào khủng hoảng. Con đường đời của họ đã bị trật bánh. Họ cảm thấy hổ thẹn do mình còn sống trong khi người thân yêu lại chết đi. Thân quyến những người chết đã mất đi trụ cột của mình. Vụ hỏa hoạn này làm lay chuyển niềm tin vào một thế giới công bình cho không chỉ những người sống sót mà cả người dân Boston ở xa đám cháy (kể cả tôi, lúc đó mới năm tuổi). Những người bị trừng phạt không phải là kẻ hư hỏng hay xấu xa: họ chỉ là những con người bình thường, bị chết không phải do lỗi lầm của họ.

Một số người sống sót và những người thân vẫn còn bị sang chấn tinh thần trong phần đời còn lại. Một số tự vẫn. Nhưng hầu hết, một vài tuần dằn vặt dữ dội do chưa thể chấp nhận nổi mất mát của mình, đã bắt đầu bớt đau buồn, xem xét lại bản thân, tạo dựng lại cuộc đời và thấy rằng không phải mọi thứ trong thế giới này đều đã bị hủy hoại. Nhiều người bị mất vợ hoặc chồng trong vụ nay đã tái hôn. Dù vậy, ngay cả ở những trường hợp tốt nhất, mãi nhiều thập niên sau họ vẫn là những mảnh ghép giữa căn tính mới hình thành sau vụ hỏa hoạn Cocoanut Grove và căn tính cũ trước khi đám cháy xảy ra. Trong suốt cuốn sách này, chúng ta sẽ thường xuyên có cơ hội áp dụng phép ẩn dụ về “mảnh ghép” đối với những cá nhân và quốc gia mà các yếu tố khác hẳn nhau cùng tồn tại một cách khó chịu.

Vụ hỏa hoạn Cocoanut Grove cung cấp một ví dụ khắc nghiệt về biến cố cá nhân. Nhưng sự khắc nghiệt này chỉ xảy ra với một số lượng lớn nạn nhân cùng lúc - trên thực tế, có quá nhiều nạn nhân bị kích động bởi đám cháy đòi hỏi phải có những liệu pháp mới trong lĩnh vực tâm lý trị liệu, như chúng ta sẽ thấy ở Chương 1. Nhiều người trong chúng ta từng trực tiếp trải nghiệm bi kịch cá nhân trong đời sống riêng, hay gián tiếp qua người thân hoặc bạn bè. Tuy nhiên, những thảm kịch như vậy không chỉ nhằm vào một nạn nhân và gây đau đớn cho họ, mà còn cho cả bạn bè của người đó, như trường hợp vụ hỏa hoạn Cocoanut Grove đối với những người thân quen của nạn nhân.

Bây giờ, để so sánh, đây là một ví dụ về tầm biến cố quốc gia. Tôi sống ở Anh vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, đúng vào thời điểm đất nước này đang trải qua một biến cố quốc gia tiệm tiến, mặc dù cả tôi và những người bạn Anh đều không thấy rõ điều đó. Nước Anh vốn dĩ đứng đầu thế giới về khoa học, được ban tặng một lịch sử văn hóa phong phú, đậm chất Anh đầy tự hào và độc đáo, đồng thời vẫn còn lưu giữ những hồi ức về việc từng sở hữu hạm đội lớn nhất thế giới, sự thịnh vượng và đế chế trải rộng nhất trong lịch sử. Thật không may, đến thập niên 1950 thì Liên hiệp Anh lại bị chảy máu kinh tế, mất đi đế chế và quyền lực, gặp xung đột về vai trò của mình ở châu Âu, và phải đấu tranh với những khác biệt giai tầng lâu đời và làn sóng nhập cư gần đây. Trong giai đoạn 1956-1961, mọi thứ lên đến đỉnh điểm khi Anh thải hồi mọi tàu chiến còn lại của mình, vướng vào các cuộc bạo loạn sắc tộc đầu tiên, phải trao trả độc lập cho các thuộc địa ở châu Phi, đồng thời chứng kiến Khủng hoảng Suez làm phơi bay thất bại nhục nhã về khả năng hành động độc lập của một cường quốc thế giới. Những người bạn Anh của tôi phải gắng hiểu về những sự kiện đó để giải thích chúng cho một người khách Mỹ như tôi. Chúng làm thổi bùng những tranh luận sôi nổi trong dân chúng và các chính trị Anh về bản sắc và vai trò của nước này.

Đến nay, sau 60 năm, nước Anh vẫn là một mảnh ghép giữa bản sắc mới và bản sắc cũ của nó. Nước Anh đã rũ bỏ đế chế của mình để trở thành một xã hội đa sắc tộc, chấp nhận một nhà nước phúc lợi và trường học chất lượng cao do chính phủ điều hành để giảm trừ sự khác biệt giai cấp. Nước này giờ đây không còn giành lại được sự thống trị về hải quân và kinh tế trên thế giới và hiển nhiên vẫn còn tồn tại mâu thuẫn (như vụ Brexit) về vai trò của họ ở châu Âu. Nhưng Anh vẫn nằm trong số sáu quốc gia giàu nhất thế giới, vẫn có một nền dân chủ nghị viện theo thể chế quân chủ lập hiến, vẫn là một đất nước hàng đầu về khoa học và công nghệ và vẫn sử dụng đồng bảng Anh chứ không phải đồng euro.

Hai câu chuyện trên minh họa cho chủ đề của cuốn sách này. Biến cố, và những áp lực phải thay đổi, đe dọa đến những cá nhân và nhóm người ở đủ cấp độ, từ những con người đơn lẻ, đến các nhóm, doanh nghiệp, quốc gia, và trên toàn thế giới. Biến cố có thể phát sinh từ những áp lực bên ngoài, chẳng hạn như một người bị bạn đời bỏ rơi hoặc trở thành góa bụa, hay một quốc gia bị đe dọa hoặc tấn công bởi một quốc gia khác. Ngoài ra, biến cố có thể phát sinh từ những áp lực bên trong, chẳng hạn như một người bị bệnh hoặc một quốc gia gánh chịu bất ổn xã hội. Đối phó thành công với áp lực bên ngoài hoặc bên trong đòi hỏi sự thay đổi có chọn lọc. Điều này đúng cho cả quốc gia cũng như cá nhân.

Từ khóa ở đây là “chọn lọc.” Việc thay đổi hoàn toàn và loại bỏ mọi thứ về căn tính trước đó là điều bất khả và bất cầu đối với những cá nhân hoặc quốc gia. Thách thức đối với các quốc gia cũng như cá nhân đang gặp biến cố là tìm ra được phần nào trong căn tính của họ đã vận hành tốt không cần thay đổi và phần nào không còn vận hành cần phải thay đổi. Cá nhân hay quốc gia nào đang chịu áp lực thì phải đánh giá một cách trung thực về khả năng và giá trị của mình. Họ phải quyết định những gì của chính mình vẫn vận hành và vẫn phù hợp với ngay cả dưới các hoàn cảnh đã thay đổi để lưu giữ lại. Ngược lại, họ cần đủ dũng khí để nhận ra những gì phải thay đổi để đối phó với tình huống mới. Điều đó đòi hỏi các cá nhân hoặc quốc gia phải tìm giải pháp mới phù hợp với khả năng và với phần còn lại của chính họ. Đồng thời, họ phải phân định ranh giới và khoanh rõ những yếu tố nào là quan trọng đối với căn tính của mình đến mức khước từ việc thay đổi chúng.

Những điều đã nêu nằm trong những tương đồng giữa cá nhân và quốc gia liên quan đến biến cố. Nhưng cũng có những khác biệt rõ ràng mà chúng ta phải thừa nhận.

*

Một điểm khởi đầu thuận tiện là từ biến cố trong tiếng Anh “crisis” bắt nguồn từ danh từ tiếng Hy Lạp “krisis” và động từ “krino,” có những nét nghĩa sau: “tách rời,” “quyết định,” “vạch ra sự khác biệt” và “bước ngoặt.” Do đó, người ta có thể nghĩ biến cố là một thời điểm sự thật: một bước ngoặt khi hoàn cảnh trước và sau “thời điểm” đó khác biệt “nhiều hơn” so với trước và sau “hầu hết” các thời điểm khác. Tôi đặt các từ “thời điểm,” “nhiều hơn” và “hầu hết” trong ngoặc kép vì đó là một vấn đề thực tiễn để xác định thời điểm này ngắn ngủi đến thế nào, những điều kiện thay đổi khác nhau ra sao và mức độ hiếm hoi hơn của nó so với hầu hết các thời điểm khác để trở thành một bước ngoặt mà chúng ta có thể gắn cho nó cái nhãn “biến cố” thay vì chỉ là một sự kiện nhỏ nhặt hay một tiến trình thay đổi tự nhiên tiệm tiến.

Bước ngoặt thể hiện một thách thức. Nó tạo áp lực để đưa ra những phương pháp xử lý mới, khi các phương pháp trước đây chứng tỏ không phù hợp để giải quyết thách thức. Nếu một cá nhân hoặc quốc gia quả thực nghĩ ra các phương pháp đối phó mới và tốt hơn, thì chúng ta cho rằng biến cố đã được giải quyết thành công. Nhưng như sẽ thấy ở Chương 1, sự khác biệt giữa thành công và thất bại trong việc giải quyết biến cố thường không rõ rệt - thành công có thể chỉ một phần nào, có thể không kéo dài mãi mãi, và vấn nạn tương tự có thể lặp lại. (Hãy nghĩ về việc Liên hiệp Anh “giải quyết” vai trò thế giới của họ bằng cách gia nhập Liên minh Châu Âu vào năm 1973 rồi sau đó, vào năm 2017, lại bỏ phiếu cho việc rời khỏi Liên minh Châu Âu.)

Bây giờ chúng ta minh họa cho vấn đề thực tiễn đó như sau: một bước ngoặt phải ngắn ngủi, quan trọng và hiếm hoi đến mức nào mới chứng thực cho việc sử dụng thuật ngữ “biến cố”? Trong một đời người hay một thiên niên kỷ lịch sử khu vực, việc gán cho những gì xảy ra là một “biến cố” có thường được sử dụng? Những câu hỏi trên đều có nhiều đáp án để lựa chọn; những đáp án khác nhau lại chứng tỏ sự hữu ích cho các mục đích khác nhau.

Một câu trả lời giới hạn thuật ngữ “biến cố” trong những khoảng thời gian rất dài và những biến động rất hiếm gặp và kịch tính: chẳng hạn, chỉ một vài lần trong đời đối với một cá nhân, và chỉ vài thế kỷ cho một quốc gia. Chẳng hạn, một nhà sử học thời La Mã cổ đại chỉ có thể áp dụng từ “biến cố” cho ba sự kiện sau khi nền Cộng hòa La Mã thành lập vào khoảng năm 509 trước Công nguyên (TCN): hai cuộc chiến tranh đầu tiên với Carthage (264-241 và 218-201 TCN), việc đế chế thay thế chính phủ cộng hòa (khoảng năm 23 TCN), và những cuộc xâm lăng man rợ dẫn đến sự sụp đổ của Đế chế La Mã phương Tây (khoảng năm 476). Tất nhiên, một nhà sử học La Mã không xem mọi sự kiện khác trong lịch sử La Mã giữa năm 509 TCN và năm 476 là không xứng đáng được đề cập, nhưng ông ta chỉ dành thuật ngữ “biến cố” cho ba sự kiện đặc biệt đó.

Mời các bạn đón đọc Biến Động - Các Quốc Gia Ứng Phó Với Khủng Hoảng và Thay Đổi Như Thế Nào? của tác giả Jared Diamond.