Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam

Trước 1995, những khi thắc mắc về những từ gốc Trung Hoa, gốc Khơ-me hay những địa danh, tôi thường đến nhà chú Vương - đó làcách tôi xưng hô với Cụ do sự cách biệt về tuổi tác và lòng kính trọng.
Nay ngồi đọc lại từng trang quyển "Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam", tôi có cảm tưởng như đang nghe chú Vương nói về các từ gốc Triều Châu: lì xì, thèo lèo, mửng…; các từ gốc Quảng Đông: hẩu, xá xíu, xiếu mại…; các từ gốc Khơ-me: bưng, nóp, bò hóc, bò ót…; và gốc Pháp: xà ích, dinh tê.
Về từ "dinh tê" chẳng hạn, Cụ Vương kể rằng đó là từ nói trại động từ "rentrer" của Pháp theo lối phát âm của đồng bào miền Bắc, chỉ việc những người tản cư khi Pháp tái chiếm các đô thị sau 1945, sau thời gian sống trong vùng tự do, vì nhớ tiếc đời sống thị thành đã trở về sống ở vùng Pháp ngụy. Rồi nhân đó, Cụ sẽ kể từ "tụt tạt" là một từ nảy sinh trong thời kháng chiến, cũng ở miền Bắc, chỉ việc mấy người theo kháng chiến nhát gan, khi đối diện với binh lực đối phương thường tìm cách "tụt" xuống phía sau hay "tạt" sang bên này bên kia để tránh địch.
Cách trình bày do sự liên tưởng trong lúc hứng thú khiến đôi khi Cụ không giữ đúng lối sắp xếp các mục từ thông thường trong từ điển. Sau khi kể các tư liệu về lịch sử, địa lý, dân cư… của tỉnh
Bà Rịa chẳng hạn, Cụ kể luôn tất cả các tỉnh Nam Bộ, từ Bạc Liêu đến Vĩnh Long theo thứ tự a,b,c, cũng với đầy đủ các chi tiết về mỗi tỉnh. Các địa danh về cù lao, cửa, núi, sông, giồng, gò… cũng được trình bày theo cách ấy.
Tuy có hơi mất thời giờ trong sự tra cứu, nhưng người đọc sách nhờ giọng nói hóm hỉnh của tác giả thấy hứng thú hơn sự tiếp thu các kiến thức sâu rộng của Cụ.
Và từ chỗ cảm thấy mình gần gũi với tác giả hơn, ta sẽ dễ dàng chia sẻ với Cụ những gian nan vất vả của nhà nghiên cứu đi sâu vào nhiều ngành chuyên môn (địa lý, lịch sử, ngôn ngữ, dân tộc học, phong tục học….) với một sự tận tụy không mệt mỏi vì tinh thần tôn thờ sự chính xác. Sau khi giảng giải từ "dỏ" trong địa danh "Dỏ Sa" chẳng hạn, Cụ đặt vấn đề: có phải "dỏ" đã do sự phát âm sai biến đổi thành "vỏ" trong các địa danh Vỏ Đắc, Vỏ Đắt, Vỏ Đất? Tác giả cũng đã chia sẻ cùng người đọc nhiều nỗi băn khoăn trong việc giảng giải địa danh "Giu Gia", tên nôm của huyện Phong Thạnh ngày trước nay thuộc tỉnh Sóc Trăng, chẳng hạn.
Đọc "Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam" của cụ Vương Hồng Sển, chúng ta sẽ vừa tìm được nhiều chỉ dẫn quí báu về địa danh, về tiếng nói Nam Bộ xưa và nay, vừa được thưởng thức cách kể chuyện rất duyên dáng của một cụ già vừa có hiểu biết sâu rộng về nhiều ngành chuyên môn, vừa rất từng trải trong cuộc sống.

TP.Hồ Chí Minh, 15.4.1998
Bùi Đức Tịnh - Giới thiệu và hiệu đính

***

Ngày 30/4, nhân đọc Tự vị tiếng Việt miền Nam của cụ Vương Hồng Sển (nxb Văn hóa, 1993), có mấy dòng nhận xét sau đây về cái nhìn của Vương tiên sinh đối với chế độ mới.

Là một người suốt đời mê sách, đã từng viết Thú chơi sách (1960), dễ hiểu là cụ Vương tỏ ý đau đớn một cách kín đáo trước những chiến dịch đốt sách nhân danh “bài trừ văn hóa đồi trụy”: “Ngày nay từ năm 1975, có nạn hốt và thủ tiêu sách.” (tr. 499). Và là một người sưu tầm cổ ngoạn số một miền Nam, cụ Vương tránh sao khỏi xót xa khi nghĩ đến số phận của 1.300 món trang sức bằng vàng có nạm châu báu, gọi chung là le trésor d’Oc Eo, lưu trữ ở Viện Bảo tàng Sài Gòn, do Louis Malleret thu thập: “[…] từ sau ngày 30-4-1975, các bảo vật ấy, ước 2 kilo, còn mất không biết được.” (tr. 523)

Về lịch sử, cụ Vương quyết liệt bảo vệ một cái nhìn khách quan về các nhân vật bị các ông quan sử học của chế độ mới lên án. Cụ ca ngợi Nguyễn Tri Phương quả cảm chống giặc, mà cũng kính trọng Phan Thanh Giản yêu nước, sáng suốt. Cho nên, cụ không chịu được những ai vì thiên kiến chính trị mà cố kết tội cụ Phan: “Có một hôm nọ, xúm nhau tìm tội lỗi của quan Phan, từ sáng đến xế mà chưa ngã ngũ, tôi bực quá buộc lòng than khá lớn: “Chớ chi ông sanh ở Hà Nội thì không có chuyện”. Cả nhóm đứng dậy và giải tán, tôi đến nay còn ăn năn già không biết giữ lời.” (tr. 488)

Ở một chỗ khác, cụ phê phán việc hạ bệ tượng đồng Trương Vĩnh Ký: “[…] hình đồng của nhà tiền bối này, nguyên do tiền bá tánh Nam Kỳ góp trong cuộc lạc quyên để nhắc đời công lao người học rộng này, nay còn đâu? Và người đi sau có quyền gì hủy hoại lòng bái phục chơn thành của nhóm người đi trước? Nếu nay ta bày gương này, thì đừng trách đám đàn em sau này không đồng ý kiến với chúng ta.” (tr. 587) Nói thêm: Nguyễn Văn Trung (Trương Vĩnh Ký – Nhà văn hóa, nxb Hội Nhà văn, 1993, tr. 44) cho biết cháu Trương Vĩnh Ký là ông Trương Vĩnh Thạnh có được mời đến để thông báo lý do hạ bệ tượng Trương Vĩnh Ký: “Nhân dân không muốn duy trì những tàn tích cũ!”. Việc dựng tượng Trương Vĩnh Ký không phải là sáng kiến của chính quyền thực dân Pháp, mà là của những người yêu nước thuộc tổ chức Minh Tân do Trần Chánh Chiếu đứng đầu. Đó là một cuộc lạc quyên, nói đúng hơn là một cuộc vận động chính trị, rộng rãi trong mọi giới, từ nông thôn đến thành thị (xem Nguyễn Văn Trung, sách đã dẫn, tr. 41-44).

Về ngôn ngữ, cụ phản đối chủ trương thống nhất quá đà, đến mức muốn mọi người phải nói một “giọng của người đắc thắng chi nhất thời”: “Luận về mặt văn chương, muốn xưng là lịch duyệt thì phải lảu thông tiếng nói ba miền Bắc, Trung, Nam, tiếng ngoại quốc cũng cần tường lãm, tiếng xưa tiếng nay tiếng nói tiếng lái (nói lái) cũng cho rành mới đáng gọi là người Việt, chớ không phải bo bo biết có một của người đắc thắng chi nhất thời, mà gọi là “nói tiếng thống nhất” được. Nói có một giọng, dùng có một chữ duy nhất, tỷ dụ nói “thư” bỏ chữ thơ, nói nhất, không cho dùng chữ nhứt, vân vân, theo tôi, ấy là làm nghèo cho tiếng nói chớ không còn thống nhất nữa.” (tr. 479-480)

Nhưng cụ Vương không giới hạn cái nhìn phê phán của mình trong những vấn đề văn hóa. Về kinh tế, cụ bất bình về chính sách thủ tiêu “tư sản mại bản”: “Con cháu Lý Tài [tên một người Hoa – chỉ người Hoa nói chung] vẫn tiếp tục làm nghề trung gian ở giữa, phát tài to là nghề mại bản, quan gọi là “Mái chín” (compradore) cho đến ngày nay gán cho bản hiệu mới “tư sản mại bản” mà chịu trần ai khổ lụy, tán gia bại sản, gia vong, thân phải lưu vong, nhưng họ là người giàu nghị lực, miễn cho thân còn sống sẽ lo tạo lập cơ nghiệp mới trên đất mới khác.” (tr. 459)

Về chính trị, dường như cụ chê “trại cải tạo” là một chủ trương dối trá. Phân biệt phòng và trại, cụ dẫn Việt Nam máu lửa của Nghiêm Kế Tổ rằng “trong đẳng, sau khi bị treo giò, mất tín dụng người cán bộ nào được ở lại nằm lì nằm co một chỗ tại phòng tiếp tân của trung ương cơ quan mình thì gọi là “phòng’, anh nào vô phúc hơn, phải xách ba lô vào cải hối thất thì gọi là “trại”. Cả hai đều với mục đích trau giồi tư tưởng, lọc bỏ lỗi lầm cũ, nhưng ở “phòng” thì còn danh còn nghĩa, chứ đến “trại” thì đã là tù” (tr. 529. Nói thêm: Tự vị tiếng Việt miền Nam ghi nguồn là Việt Nam máu lửa trang 174, nhưng thực ra là các trang 172-173). Cần lưu ý Nghiêm Kế Tổ là một nhân vật lẫy lừng của Việt Nam Quốc dân đảng, còn Việt Nam máu lửa (nxb Mai Lĩnh, 1954) là cuốn sách chống cộng. Và có phải ngẫu nhiên không khi cụ Vương muốn minh định nghĩa của chữ trại, là “trại tù”, trong khi nhà nước luôn luôn nói đó chỉ là “trại cải tạo”?

Rộng hơn, cụ thẳng thắn nói rõ sau năm 1975, miền Nam mất hết tự do: “Được làm dân Việt, […] từ 1975 mất hết luôn cả tự do […].” (tr. 344)

Đây là một cuốn sách tra cứu, sắp xếp theo kiểu từ điển, cho nên ý kiến của tác giả chỉ ngắn gọn, rải rác và không hệ thống. Tuy nhiên, nếu chịu khó đọc kỹ, cũng có thể thấy phần nào quan điểm của cụ Vương. Việc cho in cuốn sách này có lẽ là do người canh cửa của nhà xuất bản Văn hóa sơ xuất, không ngờ tác giả lại cài những lời lẽ “không hợp thời” vào một cuốn sách có vẻ không có gì là chính trị, hơn là do họ có tư tưởng cởi mở.

(nguồn Văn đoàn Việt)

***

Vương Hồng Sển (1902 - 1996), tên thật là Vương Hồng Thạnh hay Vương Hồng Thịnh (khi làm giấy khai sinh bị viết nhầm là Sển, vì đọc theo cách phát âm tiếng Triều Châu của người Quảng Đông, Trung Quốc). Ông sinh tại Sóc Trăng, mang dòng máu Việt, Hoa, Khmer, là một nhà văn, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng; được xem là người có hiểu biết sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam.

Thời học sinh, ông học tại trường Collège Chasseloup Laubat (nay là trường Phổ thông trung học Lê Quý Đôn). Sau khi đậu bằng Brevet Elémentaire, ông làm công chức ngạch thư ký và phục vụ nhiều nơi từ năm 1923 đến năm 1943, trong đó có dinh Thống đốc Nam Kỳ (1939-1943). Từ năm 1948, ông làm Quyền quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam tại Sài Gòn cho đến khi về hưu vào năm 1964.

Thuở nhỏ ông thích tìm hiểu về đồ cổ. Sau khi về hưu, ông chuyên sưu tập các loại sứ gốm cổ, khảo cổ về hát bội, cải lương và cộng tác với đài Phát thanh Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn khảo cứu về các trò chơi cổ truyền: đá dế, chọi gà, chọi cá, chơi chim, trồng kiểng, nghệ thuật chơi cổ ngoạn, nghiên cứu về chuyện tiếu lâm. Những ai muốn nghiên cứu về lịch sử miền Nam thế kỷ XX chắc hẳn sẽ tìm thấy trong các tác phẩm của ông những nguồn tài liệu bổ ích.

Một số tác phẩm có giá trị của ông có thể kể đến:

  • Thú chơi sách (1960);
  • Sài Gòn năm xưa (tập I, II 1960, III 1992);
  • Hồi ký 50 năm mê hát (1968); Phong lưu cũ mới (1970);
  • Thú xem chuyện Tàu (1970);
  • Thú chơi cổ ngoạn (1971);
  • Chuyện cười cố nhân (1971);
  • Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa (1972);
  • Cảnh Ðức trấn đào lục (1972);… (1993);
  • Tạp bút năm Quý Dậu (1993);
  • Tự vị tiếng Việt miền Nam (1994);
  • Nửa đời còn lại (1995);
  • Mời các bạn đón đọc Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam của tác giả Vương Hồng Sển.