Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc Cuốn 1: Từ Thượng Cổ đến đời Tuỳ

LỜI NGỎ

Công trình mệt cho tôi nhất – mệt mà thú – hồi tản cư ở Long Xuyên nhất là viết bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc gồm ba cuốn: I. Từ thượng cổ đến đời Tuỳ; II. Đời Đường; III. Từ Ngũ đại đến hiện đại.

Viết bộ đó chủ ý của tôi cũng là để tự học. Trong bài Tựa – mà tôi lấy làm đắc ý – tôi nói hồi ở trường Bưởi tôi đã tò mò muốn biết về văn học Trung Quốc. Nền cổ học Trung Quốc như có sức gì huyền bí thu hút tôi, một thanh niên theo Tây học. Mỗi lần nghe đúng tên như Văn tâm điêu long, Chiêu Minh văn tuyển, Tiền Xích Bích phú, Qui khứ lai từ… dù chẳng hiểu nghĩa, tôi cũng thấy trong lòng vang lên một điệu trầm trầm, như nhớ nhung cái gì. Phải chăng đó là tiếng vang những giọng ngâm nga của tổ tiên tôi còn văng vẳng trong lòng tôi?

Muốn tìm hiểu văn học Trung Quốc mà sách báo Việt chỉ làm cho tôi thất vọng. Cuốn Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính sơ lược quá; còn đọc những bài dịch Cổ văn, thơ Đường đăng lác đác trên tạp chí Nam Phong và một số báo khác thì không khác gì coi mấy bông sói, bông hồng, bông ngâu, bông móng rồng mà mấy chị bán hoa ở phố Hàng Đường (Hà Nội) gói trong chiếc lá chuối, chứa trong cái thúng để bán cho các bà nội trợ mua về cúng rằm, làm sao biết được vườn làng Ngọc Hà, làng Yên Phụ ra sao.

Tôi chỉ còn cách học chữ Hán để đọc sách của người Trung Hoa viết. Khi đã có một số vốn độ 3.000 chữ, đủ để mò trong các tự điển Trung Quốc, tôi kiếm mua mấy bộ Cổ văn, Đường thi, Văn học sử, Bạch thoại văn học sử, Trung Quốc văn học tư trào sử lược… như tôi đã nói (chương XIII), rồi mò mẫm lần. Thật khó nhọc vô cùng! Đọc một bài trong Cổ văn quan chỉ dài độ hai mươi hàng, tôi thường mất cả buổi mà chỉ hiểu lờ mờ. Bộ ấy chú thích rõ ràng, và có dịch cổ văn ra bạch thoại; nhưng cổ văn và bạch thoại của tôi đều ở mức sơ đẳng, phải dùng cổ văn để đoán bạch thoại và ngược lại dùng bạch thoại để đoán cổ văn.

Còn những cuốn Văn học sử thì tuyệt nhiên không có chú thích, nhiều chỗ tôi phải viết thư hỏi bác tôi, nhưng không dám hỏi nhiều vì mất công bác viết thư trả lời. Đành đọc nhiều sách, nhiều lần rồi vỡ nghĩa dần.

Học tới đâu tôi tóm tắt, ghi tới đấy, so sánh các sách, sắp đặt rồi chép trong những tập vở 100 trang. Sau cùng dịch một số bài văn thơ, viết thành chương. Nội công việc dịch và viết này cũng mất chín, mười tháng. Các bài cổ văn thì tôi dịch lấy, thơ tôi dịch được một số, bác tôi dịch cho một số lớn. Bài thơ nào không đề tên người dịch là của tôi, đề "Vô danh dịch" là của bác tôi. Hai bác cháu đều chú trọng nhất tới đức "tín", nghĩa là dịch sao cho đúng, cho sát, không dám sửa lời, thêm ý. Chúng tôi biết nhiều bài người trước đã dịch rồi mà hay, nhưng vì ở Long Xuyên thiếu sách, tôi không thể kiếm được, nên không dẫn vô.

Tôi viết như vậy cốt để học, chứ không nghĩ đến việc in. Viết xong, thấy có thể giúp cho các bạn hiếu học có một khái niệm về văn học Trung Quốc nên mới sửa lại rồi cho xuất bản. Sự nhận định của tôi chắc không sai nhiều vì tôi đã tham khảo kĩ, bằng những phương tiện tôi có; bố cục có mạch lạc và sáng sủa; nhưng tôi nhận rằng còn những lỗi dịch sai, nhất là phiên âm sai, mặc dầu vậy tôi cũng cứ cho ra mắt độc giả. Sở dĩ "tôi cả gan như vậy là vì tin lòng quảng đại của các vị cựu học, không nỡ trách kẻ hậu tiến học thức nông cạn mà sẵn lòng hạ cố chỉ bảo cho những chỗ sai lầm, hầu giúp bọn tân học chúng tôi hiểu thêm cái cổ học của các cụ, tức là cái nền tảng văn hóa dân tộc Việt Nam chúng ta" (trích trong bài Tựa).

Văn học Trung Quốc ảnh hưởng rất lớn đến văn học Việt Nam mà các cụ quá khiêm tốn không chịu viết thì bọn xẩm như tôi đành phải mò kim vậy.

Viết xong tôi chép lại, khoảng 750 trang, mất ba tháng nữa (vì có nhiều chữ Hán và bài nào cũng có phần phiên âm).

Ngày 20 tháng mạnh đông năm Quý Tị (26-XI-1953), mọi công việc hoàn thành, tôi thấy khoan khoái. Tôi thảo bài Tựa, cuối bài ghi cảnh trăng khuya trong vườn hoa ở phòng viết trông ra:

"Trăng mới ló dạng. Cảnh vật đang tối tăm, bí mật bỗng hoá ra êm đềm nên thơ. Nhành liễu là đà lấp lánh bên dòng nước. Giò huệ rung rinh toả hương dưới bóng dừa. Đêm nay tôi muốn thả hồn tìm thi nhân cùng danh sĩ Trung Hoa thời trước.
"Hỡi hương hồn chư vị ấy! Tôi mang ơn chư vị rất nhiều, gần bằng mang ơn văn nhân nước tôi; vì từ hồi mới sanh, tôi đã được nghe lời ngâm Chinh phụ, Thuý Kiều xen lẫn với lời bình văn thơ của chư vị và ngay trong văn học nước tôi cũng thường thấy ẩn hiện nỗi của lòng chư vị. Tâm hồn tôi ngày nay một phần cũng do chư vị đào luyện nên.
"Viết cuốn này tôi muốn có cơ hội gần chư vị thêm một chút. Tác phẩm của chư vị quá nhiều, tôi không đọc hết, nên ngoài cái lỗi giới thiệu vụng về, tất còn mang thêm cái tội vô tình xuyên tạc. Xin chư vị lượng thứ".

Mới có 27 năm mà cảnh tôi tả trong đoạn đó nay đã thay đổi hẳn: dòng kinh đã lấp, gốc liễu đã không còn, nhưng thêm được hai cây hoàng lan, chiều tối hương thơm ngào ngạt cả một xóm.

Bác tôi mừng tôi hoàn thành tác phẩm, cho tôi hai bài thất ngôn tứ tuyệt:

紅紫門前鬥艶香
滿盤詩史費平章
金風鉄馬閒中過
一匣青山自主張
Hồng tử môn tiền đấu diễm hương, Mãn bàn thi sử phí bình chương. Kim phong thiết mã nhàn trung quá, Nhất hạp thanh sơn tự chủ trương.

伱自編之我閱之
一家樂事在相知
何須更向東西問
继往開來更属誰
Nễ tự biên chi ngã duyệt chi Nhất gia lạc sự tại tương tri. Hà tu cánh hướng đông tây vấn, Kế vãng khai lai cánh thuộc thuỳ?

Dịch nghĩa:

(1) Trước cửa, các hoa đỏ, tía tranh nhau phô hương sắc, Trên bàn đầy thi sử, khó nhọc phê bình. Gặp lúc nhàn trong thời buổi binh đao, Có chủ trương lưu lại một hộp sách trong núi xanh (lưu tác phẩm cho đời sau)

(2) Cháu cứ viết đi, bác duyệt cho, Cái vui trong gia đình ở chỗ bác cháu hiểu nhau. Cần chi phải hỏi người bên đông bên tây, Việc kế vãng khai lai còn tuỳ thuộc vào ai nữa.

Bác tôi còn cho tôi hai câu đối:

古色古香文自古
辛心辛筆世方辛
Cổ sắc cổ hương văn tự cổ Tân tâm tân bút thế phương tân.

一門文獻堪徵史
两國兵焚不滅書
Nhất môn văn hiến kham trưng sử Lưỡng quốc binh phần bất diệt thư

Dịch nghĩa:

(1) Sắc cổ, hương cổ, văn thời cổ Lòng mới, bút mới, đời vừa mới (2) Một nhà văn hiến có thể ghi vào sử Lửa binh hai nước không diệt được sách.

Bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc, ông P. Văn Tươi nhận là có giá trị nhưng không chịu xuất bản vì in rất tốn (phải sắp chữ Hán) mà khó bán. Năm 1955 tôi lại phải bỏ vốn ra in, 1956 mới xong. Chỉ in 1.500 bản, tốn 75.000đ (mỗi cuốn 25.000đ). Giá vàng hồi đó vào khoảng 4.000đ – 5.000đ một lượng. Bán một năm được khoảng 500-600 bộ, đủ vốn; số còn lại bán bảy tám năm sau mới hết. Vậy, làm cái nghề viết văn cũng cần có vốn kha khá thì mới giữ được chí hướng, làm được những việc mình thích, mà chẳng phải tuỳ thuộc ai. Nếu tôi không có xuất bản lấy thì 10-15 năm sau chưa chắc đã có nhà chịu in cho, lòng ham viết tất phải nguội dần mà sẽ không viết thêm được cuốn nào về cổ học Trung Hoa nữa.

In xong tôi mang về Long Xuyên ngay để bác Ba tôi coi. Tôi buồn rằng cha mẹ tôi và bác Hai tôi không còn. Tôi đã không phụ công của ba người thân đó. Trang đầu sách tôi đề:

KÍNH DÂNG Hương hồn Thân mẫu tôi, Người đã cho tôi học thêm chữ Hán ở giữa thời tàn tạ của Nho học.

Bộ đó năm 1964 nhà Khai Trí tái bản; in 2.000 bản, được viện Đại học Huế khuyên sinh viên đọc; nhưng năm 1974 bán vẫn chưa hết. Lần tái bản này tôi chỉ sửa được một phần lỗi trên bản flan (bản để đổ chì) thôi, vì sắp chữ lại thì tốn công lắm.

(Trích Hồi kí Nguyễn Hiến LêNxb Văn học, năm 1993, tr. 444-446)

***

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Văn học Trung Quốc có bề dày trên 3.000 năm, thuộc những nền văn học đồ sộ và rực rỡ nhất thế giới.

Do hoàn cảnh lịch sử và địa lý, văn học Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hóa lâu đời này.

Từ lâu, các nước phương Tây đã có nhiều công trình nghiên cứu văn học Trung Quốc rất công phu và khoa học.

Trước đây, ở nước ta có "Việt Hán văn khảo" của Phan Kế Bính; tuy là công trình có giá trị tiên phong trong lãnh vực này, nhưng tiếc là còn sơ lược quá.

Trong kho tàng văn học đồ sộ ấy, một người "dù chỉ chuyên đọc trong 50-60 năm cũng vị tất đã coi được đủ và kỹ, đừng nói đọc rồi còn phân tích, so sánh, lựa chọn, tổng hợp, phê bình…". "Nhưng không phải vì vậy mà người Trung Quốc không viết về văn học sử của họ và người Anh, người Pháp… không viết về văn học sử Trung Quốc".

Học giả Nguyễn Hiến Lê, từ nhỏ đã say mê nền cổ học Trung Quốc. Ông được may mắn được thầy, chú và các bậc túc nho đương thời chỉ dạy. Có được vốn Hán học ban đầu, ông dốc tâm tự học và dày công nghiên cứu. "Học đến đâu ghi đến đấy. Khi học thì chỉ ham mê tìm hiểu cái đẹp mà không có ý viết sách. Khi học xong, thấy công việc ghi chép ấy có thể giúp các bạn hiếu học một khái niệm về văn chương Trung Quốc, nên mới sửa lại rồi cho xuất bản" quyển sách Đại cương văn học sử Trung Quốc. Đây là lần tái bản thứ ba 1997, cách lần thứ nhất 1962, lần thứ hai 1964, trên 30 năm. Trong thời gian ấy, chắc rằng số lượng tác phẩm viết về văn học sử Trung Quốc, cả trong và ngoài nước, rất nhiều. Nếu học giả Nguyễn Hiến Lê còn sống, nhất định ông sẽ có những hiệu đính, bổ sung nhiều tư liệu, nhiều chương giá trị, nhất là nền văn học đương đại – từ 1949, trải qua Cách mạng văn hóa và hậu Cách mạng văn hóa đến nay.

Để đáp ứng phần nào nhu cầu học hỏi của những người yêu thích văn học Trung Quốc, trong khi chờ đợi những công trình nghiên cứu đầy đủ và khoa học hơn của các nhà "Trung Quốc học" Việt Nam, chúng ta xin giới thiệu "Đại cương văn học sử Trung Quốc" này cùng quí bạn.

Mời các bạn đón đọc Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc Cuốn 1: Từ Thượng Cổ đến đời Tuỳ của tác giả Nguyễn Hiến Lê.