Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Nhật Bản Duy Tân 30 năm

Lời thưa

Cuốn Nhật Bản duy tân 30 năm của tác giả Đào Trinh Nhất có thể được xem như một cuốn cẩm nang dành cho những ai muốn tìm hiểu về đất nước, con người và văn hóa Nhật Bản, nhất là giai đoạn mà Nhật Bản thực hiện công cuộc duy tân. Cuốn sách sẽ giúp độc giả trả lời được những câu hỏi như: Đâu là khởi nguồn của công cuộc duy tân ở Nhật Bản? Sự lột xác thần kỳ của Nhật Bản phải chăng là do may mắn? Nhật Bản đã làm những gì để có những thay đổi ngoạn mục, trở thành biểu tượng cho cả thế giới? Liệu rằng chúng ta có học hỏi được gì từ bài học duy tân của Nhật Bản hay không? Để đem tư liệu quý đó đến với độc giả hôm nay, chúng tôi mạn phép tái bản lại tác phẩm Nhật Bản duy tân 30 năm dựa trên bản in năm 1936 tại Sài Gòn. Với mục đích có được một văn bản chính xác, nhất quán và rõ ràng cho độc giả ngày nay, chúng tôi đã có một số thao tác biên tập như sau: (1) Đính chính một số sai sót về tên nhân danh, tên tác phẩm được nhắc tới; (2) Thống nhất trong toàn văn bản về việc dùng các chữ nhất, nhật, sinh, tính, nhân, bệnh, bản… thay vì nhứt, nhựt, sanh, tánh, nhơn, bịnh, bổn…; (3) Thống nhất cách viết hoa, viết thường và (4) Sửa lỗi chính tả và bổ sung một vài chú thích khi cần thiết. Đối với những phần đính chính, bổ sung, chúng tôi đều ghi rõ là do biên tập viên [BT] thực hiện.

Đặc biệt, văn bản gốc có sử dụng rất nhiều hình ảnh minh họa, tuy nhiên do chất lượng hình ảnh kém, nên không thể phục nguyên được, do đó chúng tôi quyết định thay một số hình ảnh tương tự với hình ảnh trong văn bản gốc, được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau, mục đích là cho cuốn sách thêm sinh động, hấp dẫn. Ngoài ra cũng giúp bạn đọc có một cái nhìn khách quan hơn về cuốn sách, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà báo Phan Khôi (1887 - 1959), người sống cùng thời với Đào Trinh Nhất về cuốn sách Nhật Bản duy tân 30 năm được đăng trên Sông Hương, Huế, số 32 (27 Mars 1937), trang 2, 8.

Với tất cả sự cẩn trọng trong công tác biên tập và trình bày, chúng tôi hy vọng có thể chuyển cuốn Nhật Bản duy tân 30 năm đến tay bạn đọc bằng một văn bản đáng tin cậy. Mặc dù vậy, trong qua trình làm việc, sai sót là điều khó tránh khỏi. Chúng tôi mong nhận được những góp ý của bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản tới.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Ban biên tập

***

Giúp độc giả khi đọc cuốn Nhật Bản Duy Tân 30 năm của ông Đào Trinh Nhất

PHAN KHÔI

Ông Đào Trinh Nhất, bạn tôi, mới rồi, trong một lúc xuất bản hai cuốn sách có giá trị ngang nhau. Cuốn Phan Đình Phùng đã được đem phê bình ở báo này số trước. Đến cuốn Nhật Bản duy tân 30 năm, tôi nghĩ viết một bài phê bình như thế nữa không có ích, chi bằng đứng về một phương diện khác hầu có thể giúp độc giả trong khi đọc cuốn sách ấy.

Nghĩ như thế rồi tôi viết bài này, coi cũng như bài tựa hay bài bạt cho cuốn sách về thế sự của Đào quân, chỉ khác là không được hân hạnh in vào trong sách của người.

Cuốn Nhật Bản duy tân 30 năm dày gần 300 trang giấy khổ lớn, lấy tài liệu ở hai chục pho sách hoặc chữ Hán, hoặc chữ Nhật, hoặc chữ Tây, để thuật lại công việc của một nước trong 30 năm cải cách mà thành hiệu. Trong chúng ta người nào có lòng sốt sắng, bỏ cả mọi việc mà đọc nó, cũng phải mất vài ba ngày mới hết. Khi đọc xong, ai nấy đem lòng hâm mộ sự thành công của người Nhật, là lẽ cố nhiên; nhưng nếu ai nấy thường tự hỏi: nước Nhật tại làm sao mà có được sự thành công ấy, thì chưa chắc lý hội lấy mà trả lời ngay cho mình được.

Một cuốn sách dài như thế, khi xem đến khúc sau có lẽ đã quên khúc trước, huống chi trong đó sự tình bề bộn lắm, thì lý hội cho được cũng là khó.

Vả còn điều này nữa, mình là người Việt Nam, khi đọc cuốn sử duy tân của Nhật Bản, phải thấy có sự cảm khái riêng trong lòng. Vì sao nước mình thuở xưa cũng ở trong một hoàn cảnh như họ mà mình lại không làm như họ được? Tôi tưởng người đọc sách ấy chẳng những muốn trả lời câu hỏi trên mà thôi, cũng muốn đáp luôn câu hỏi dưới.

Tôi đã đọc qua cả cuốn sách của Đào quân một bận. Về những điều ấy tôi đã lý hội kỹ. Tôi xin viết ra đây để trả lời hai câu hỏi kia. Ấy là một việc mà khi làm, tôi tưởng là có ích cho những người đọc sách của ông Đào.

* * *

Nhiều người An Nam hay nói: Nhật Bản là nước đồng văn với nước ta, họ cũng theo đạo Khổng Mạnh, họ cũng là một nước phụ dung văn hóa của nước Tàu như nước mình, thế mà họ duy tân, tự cường được đến như thế, còn nước mình ra thế này, đáng lấy làm tức.

Người nào nói như thế là chưa biết rõ nước Nhật Bản. Phải, họ thuở xưa cũng theo đạo Khổng Mạnh, cũng làm một nước phụ dung văn hóa của nước Tàu như nước ta thật, nhưng mà có khác nhau nhiều lắm trong sự giống nhau ấy.

Đọc sách của ông Đào, chúng ta thấy người Nhật có những cái tinh thần riêng của họ để làm nền móng cho sự lập quốc, như Đại Hòa hồn, Võ sĩ đạo, những cái ấy đã đành là không có ở nước ta rồi. Kể đến sự theo văn hóa Trung Hoa, nước họ cũng khác với nước mình nữa.

Người Nhật theo đạo Khổng Mạnh nhưng không theo cái học khoa cử, không bắt chước làm những kinh nghĩa, thi, phú, là thứ văn chương vô dụng. Sĩ phu họ không bị những cái bả vinh hoa của cử nhân tiến sĩ làm mê muội đi. Đầu óc của họ thuở nào đến giờ vẫn trong sạch, cho nên khi thấy có Tây học thì họ nhận biết là đáng theo mà theo ngay.

Lại thêm, người Nhật theo văn hóa Tàu mà những cái dở, những sự mê tín của người Tàu họ không chịu theo. Tức như người Nhật không tin địa lý, cũng không tin quỷ thần, đốt vàng mã. Nhờ đó, trong tư tưởng họ không vướng víu những cái tối tăm dơ bẩn cần phải mất thời giờ để gột sạch đi rồi mới hấp thụ cái hay cái tốt được.

Người Việt Nam ta từ triều Trần triều Lê về sau chỉ biết tôn chuộng cái học khoa cử, là cái học phù hoa vô dụng, làm cho sĩ phu trở nên đui điếc. Đã vậy lại còn mắc nhiều sự mê tín của người Tàu đưa qua cho, như là tin phong thủy, bói, số cùng vô số thứ dị đoan. Hồi triều Tự Đức, người Nhật đã hăm hở theo Âu hóa rồi, nhưng người mình thì trong óc còn chất chứa không biết bao nhiêu sự tối tăm dơ bẩn, vậy nên cứ thủ cựu hoài mà không làm như họ được.

Cái trình độ văn minh của một nước thế nào, là coi ở học thuật tư tưởng của người nước ấy. Một nước mà muốn cải cách, cũng bắt đầu từ học thuật tư tưởng mà cải cách đi.

Học thuật tư tưởng của người Nhật lúc chưa tiếp thọ Âu hóa cũng đã không đến hủ bại như nước ta, nhờ đó mà họ tiếp thọ Âu hóa một cách dễ dàng. Đến khi biết Âu hóa là đáng theo, và quyết kế theo rồi, thì họ lại còn biết phá hoại học thuật tư tưởng của họ mà không hề dùng dằng đoái tiếc.

Trong nước ta hiện có một hạng người thủ cựu cứ phao ngôn rằng người Nhật Bản lúc duy tân, theo Tây là chỉ theo về phương diện khoa học cơ khí mà thôi, còn về phương diện tinh thần thì họ vẫn giữ các điều họ sẵn có.

Đọc qua cuốn sách của ông Đào Trinh Nhất, sẽ thấy lời nói đó là không thật. Vả, trong thiên hạ chẳng có lẽ nào lấy cái tinh thần cũ ra mà làm được sự nghiệp mới bao giờ. Cải cách thì phải cải cách từ tinh thần, tức là học thuật tư tưởng.

Du nhập cái tư tưởng công lợi của người Anh và người Mỹ. Việc này do ông Phúc Trạch Dụ Cát đề xướng ra. Ông cả gan kêu gào phá hoại văn hóa cũ mà ông cho là cái dư độc của chế độ phong kiến. Họ Phúc Trạch sáng lập ra Khánh Ứng nghĩa thục, chuyên ban bố cái tinh thần giáo dục của phương Tây. Cái tinh thần ấy cốt ở những sự: hoài nghi, phá hoại và cải tạo, làm cho sĩ phu hướng chiều về đường thực học và bồi dưỡng cái óc tự do độc lập của quốc dân.

Du nhập cái tư tưởng tự do của người nước Pháp. Việc này do ông Bản Viên Thoái Trợ đề xướng. Sách Dân ước luận của J. J. Rousseau dịch ra trong buổi ấy. Từ đây có dấy lên nhiều cuộc vận động mới về chính trị.

Du nhập cái tinh thần của đạo Cơ Đốc. Cơ Đốc giáo vào nước Nhật đã lâu, nhưng cái tinh thần của đạo ấy được thấm khắp giữa người Nhật là từ hồi đầu triều Minh Trị. Bấy giờ có người tên là Tân Đảo Tương, một tín đồ của Chúa Cứu thế, lập ra cơ quan gọi là Đồng Chí xã, hết sức tuyên truyền giáo nghĩa của Chúa Gia Tô. Ông làm việc ấy bởi một đức tin chắc chắn, như có nói rằng: “Nếu không dùng đạo Cơ Đốc để cảm hóa quốc dân thì không bởi đâu truyền bá cái chân tinh thần của văn minh Âu châu được”.

Du nhập cái tư tưởng quốc gia của người nước Đức. Việc này do ông Gia Đằng Hoằng Chi đề xướng. Ông có làm ra sách Nhân quyền tân thuyết, phản đối các thuyết bình đẳng tự do mà cổ xúy cái Chủ nghĩa Quốc gia theo thuyết tiến hóa của Đạt Nhĩ Văn.

Theo một cuốn sách văn học sử Nhật Bản, người ta đã công nhận bốn điều ấy là trụ cột trong cuộc duy tân thành công của người Nhật, đáng đem để trên hết những sự chấn chỉnh ở bề ngoài, như là mở quốc hội, ban hiến pháp cùng là tập rèn cơ khí, khuếch trương công nghệ…

Sự nhớ cũ bao giờ cũng choán một phần trong tâm lý loài người. Do cái tâm lý ấy, lại thêm cái lòng tự trọng nữa, người Nhật đến ngày nay đã cường thịnh rồi, bèn cất cao giọng lên mà xướng cái thuyết bảo tồn quốc túy. Chứ kể theo sự thực trên lịch sử, nếu đương hồi Minh Trị mà người Nhật cứ khư khư giữ lấy cái cũ của mình, không phá hoại và cải tạo, thì làm sao có ngày nay được? Cái lẽ ấy dễ hiểu lắm: tức như nước ta vào thời Tự Đức đã bo bo giữ lấy học thuật tư tưởng cũ, chuộng khoa cử và không chừa bỏ được mọi sự tin tưởng nhảm nhí, đi đón rước lấy văn hóa Âu châu thì ta đã phải mất nước rồi.

Cứ như những lẽ nói đây đã đủ trả lời cho hai câu hỏi trên kia, câu hỏi phát ra trong óc mọi người sau khi đọc cuốn Nhật Bản duy tân 30 năm của ông Đào Trinh Nhất. Tôi còn xin nói thêm mấy lời nữa làm kết luận.

Nước ta vì thâm nhiễm các cái di độc của văn hóa Trung Hoa, khoa cử và dị đoan mê tín, nên sự nhận biết về văn minh thế giới đã phải chậm hơn người Nhật 50 năm. Từ ngày khoa cử bỏ, người mình có khai thông ra một chút, nhưng bao nhiêu sự hủ bại vẫn còn choán trong tư tưởng, thành thử không tiến bộ cho nhanh chóng được. Bây giờ, đọc sách ông Đào, lấy việc nước Nhật làm gương, ta còn nên gia công trong sự cải cách về tinh thần, trên cõi đất ấy còn có lắm phen phá hoại và kiến thiết rồi mới toan làm được việc gì…

Mời các bạn đón đọc Nhật Bản Duy Tân 30 năm của tác giả Đào Trinh Nhất.