Người ta ít có thói quen xử lý các sự kiện xã hội một cách khoa học đến mức một số mệnh đề trong cuốn sách Các Quy Tắc Của Phương Pháp Xã Hội Học có thể làm cho độc giả ngạc nhiên. Thế nhưng, nếu có một bộ môn khoa học nghiên cứu về các xã hội, thì ta buộc phải không chờ đợi ở nó một lời giải thích dông dài đơn giản về các tiên kiến (préjugés) truyền thống, đúng hơn, nó phải làm cho chúng ta thấy được các sự vật theo cách nhìn khác với người bình thường; bởi lẽ mục đích của bất cứ bộ môn khoa học nào cũng là tạo ra những sự khám phá, và mọi sự khám phá như thế ít nhiều gây xáo trộn các ý kiến đã được chấp nhận.
Vì thế, nếu trong bộ môn xã hội học người ta không gán cho cảm thức thông thường (sens commun) một uy quyền mà từ lâu không thấy có trong các bộ môn khoa học khác - và người ta cũng không rõ từ đâu mà uy quyền ấy lại có thể xuất hiện trong khoa học - thì nhà khoa học phải cương quyết không để mình rụt rè trước những kết quả đạt được trong các công trình nghiên cứu của mình, miễn sao các công trình nghiên cứu ấy được tiến hành một cách có phương pháp. Nếu đi tìm sự nghịch lý là công việc của nhà ngụy biện, thì trốn tránh sự nghịch lý, khi nó bị các sự kiện áp đặt, lại là công việc của một đầu óc không có dũng khí và thiếu niềm tin trong khoa học.
***
Émile Durkheim (15/4/1858 - 15/11/1917) là nhà xã hội học nổi tiếng người Pháp, người đặt nền móng xây dựng chủ nghĩa chức năng và chủ nghĩa cơ cấu; người đã góp công lớn trong sự hình thành bộ môn xã hội học và nhân chủng học. Những công sức của ông trong việc thực hiện và biên tập tạp chí L'Année Sociologique đã giúp xây dựng xã hội học thành một môn khoa học xã hội được chấp nhận trong giới hàn lâm. Trong suốt cuộc đời mình, Durkheim đã thực hiện rất nhiều bài thuyết trình và cho xuất bản vô số sách xã hội về các chủ đề như giáo dục, tội phạm, tôn giáo, tự tử và nhiều mặt khác của xã hội. Ông được coi là một trong những nhà sáng lập môn xã hội học.
***
❄ DẪN NHẬP: Tình trạng chưa phát triển của phương pháp luận trong các môn khoa học xã hội. Đối tượng của sách này.
❄ CHƯƠNG I - Thế nào là một sự kiện xã hội?
Sự kiện xã hội không thể được định nghĩa bằng tính phổ biến của nó trong xã hội. Các đặc điểm khu biệt của sự kiện xã hội: 1o Ở bên ngoài các ý thức cá nhân; 2o Gây ra hay có thể gây ra sự tác động có tính cưỡng bức đến các ý thức ấy. Áp dụng định nghĩa này vào các thực tiễn được cấu lập và các trào lưu xã hội. Kiểm chứng định nghĩa này.
Một cách khác để xác định đặc điểm của sự kiện xã hội: trạng thái độc lập của nó trong quan hệ với những sự biểu hiện cá nhân. Áp dụng đặc điểm ấy vào các thực tiễn được cấu lập và các trào lưu xã hội. Sự kiện xã hội trở nên phổ biến vì nó mang tính xã hội, chứ không phải nó mang tính xã hội vì nó là phổ biến. Định nghĩa thứ hai trở thành bộ phận của định nghĩa thứ nhất như thế nào.
Các sự kiện thuộc hình thái học xã hội trở thành bộ phận của định nghĩa ấy như thế nào. Định thức tổng quát về sự kiện xã hội.
❄ CHƯƠNG II - Các quy tắc về sự quan sát các sự kiện xã hội
Quy tắc nền tảng: Xét các sự kiện xã hội như các sự vật.
I. Thời kì ý hệ mà tất cả các môn khoa học trải qua và trong thời kì ấy chúng tạo ra các ý niệm tầm thường và mang tính thực tiễn, thay vì mô tả và cắt nghĩa các sự vật. Tại sao thời kì ấy trong xã hội học phải được kéo dài hơn so với các môn khoa học khác. Các sự kiện được vay mượn ở xà hội học của Comte, của ông Spencer, ở tình trạng hiện nay của đạo đức học và kinh tế học chính trị và cho thấy rằng thời kì ấy vẫn chưa được vượt qua.
Các lí do để vượt qua thời kì ấy: 1o Các sự kiện xã hội phải được xét như các sự vật, bởi lẽ chúng là những dữ liệu trực tiếp của khoa học, còn những ý niệm, mà chúng dược coi là sự phát triển, không được mang lại một cách trực tiếp. 2o Chúng có tất cả các đặc điểm của sự vật.
Những điểm giống nhau của cuộc cải cách này với cuộc cải cách đã làm biến đổi môn Tâm lí học trong thời gian qua. Những lí do để hi vọng có một sự tiến bộ nhanh chóng của ngành xã hội học trong tương lai.
II. Những hệ luận trực tiếp của quy tắc nói trên.
1o Gạt mọi tiền niệm ra khỏi khoa học. Về điểm nhìn huyền học đối lập với việc áp dụng quy tắc này.
2o Phương cách cấu tạo đối tượng thực định của cuộc nghiên cứu: nhóm các sự kiện lại theo các đặc điểm bên ngoài mà chúng có chung. Các mối quan hệ giữa khái niệm được hình thành như vậy với khái niệm thông thường. Các ví dụ về những sai lầm mà người ta phạm phải khi bỏ qua quy tắc này hay vận dụng nó không đúng: ông Spencer và lí thuyết của ông về sư tiến hóa của hôn nhân; ông Garofalo và định nghĩa của ông về tội phạm; sai lầm chung là không thừa nhận có nên luân lí ở các xã họi kém phát triển. Tính chất bề ngoài của các đặc điểm đang trở thành bộ phận của các định nghĩa ban đầu ấy không là sự trở ngại cho các lối giải thích khoa học.
3o Ngoài ra, các đặc điểm bề ngoài ấy phải khách quan nhất trong khả năng của nó. Phương tiện để đạt được điều đó: lĩnh hội các sự kiện xã hội qua khía cạnh, ở đó chúng xảy ra, biệt lập với các biểu hiện cá nhân của chúng
❄ CHƯƠNG III - Các quy tắc về sự phân biệt hiện tượng bình thường và hiện tượng bệnh lí
Ích lợi về lí thuyết và thực hành của sự phân biệt ấy. Nó phải là khả hữu về mặt khoa học để khoa học có thể dùng làm định hướng cho hành vi ứng xử.
I. Xem xét các tiêu chuẩn thường được sử dụng: sự đau đớn không phải là dấu hiệu phân biệt của bệnh tật, vì nó là một phần của trạng thái sức khỏe; cùng không phải là sự suy giảm các cơ may sống sót, vì đôi khi nó được sinh ra bởi các sự kiện bình thường (già yếu, sinh nở, v.v.), và nó không phát sinh một cách tất yếu từ bệnh tật; hơn nữa, tiêu chuẩn này hầu như không được áp dụng, nhất là trong ngành xã hội học.
Bệnh tật được phân biệt với trạng thái sức khỏe giống như cái không bình thường với cái bình thường. Loại hình trung bình hay riêng biệt. Sự cần thiết phải tính đến tuổi tác để xác định xem sự kiện là bình thường hay không-bình thường.
Nhìn chung, định nghĩa ấy về cái bệnh tật trùng khớp như thế nào với khái niệm thông dụng về nó: cái không-bình thường là cái ngẫu nhiên; tại sao cái không-bình thường, nói chung, tạo thành cái tồn tại ở trạng thái thấp kém.
II. Ích lợi của nó cho việc kiểm chứng các kết quả của phương pháp nói trên trong việc tìm các nguyên nhân của tính bình thường của sự kiện, nghĩa là của tính phổ biến của nó. Sự cần thiết phải tiến hành sự kiểm chứng ấy khi đó là những sự kiện có quan hệ với các xã hội chưa hoàn tất lịch sử của mình. Tại sao tiêu chuẩn thứ hai này chỉ có thể được sử dụng theo cách bổ sung và thứ yếu.
Phát biểu các quy tắc này.
III. Áp dụng các quy tắc ấy vào một số trường hợp, nhất là vào vấn đề tội phạm. Tại sao sự tồn tại của hiện tượng tội phạm là một hiện tượng bình thường. Các ví dụ về những sai lầm người ta thường mắc phải khi không theo quy tắc này. Khoa học thậm chí cũng trở nên bất khả.
❄ CHƯƠNG IV - Các quy tắc về sự cấu tạo các loại hình xã hội
Sự phân biệt cái bình thường và cái không-bình thường hàm ý sự cấu tạo các loại xã hội. Tính hữu ích của khái niệm loại, sự trung giới giữa ý niệm về genus homo và ý niệm về các xã hội đặc thù.
Mời các bạn đón đọc Các Quy Tắc Của Phương Pháp Xã Hội Học của tác giả Emile Durkheim.