Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Thiền Đạo

Đạo lớn vốn không có cửa, đến đó có nghìn con đường khác nhau. Thông suốt được chỗ này, thì có thể một mình thênh thang trong vũ trụ.

- VÕ MÔN QUAN -

Trong cuộc khủng hoảng tinh thần của thế giới hiện đại, Thiền được đưa thành công vào một số lĩnh vực khoa học như y học, tâm lý học…để trị liệu hiệu quả nhiều loại bệnh liên quan đến tinh thần, phụng sự rộng rãi hơn cho loài người. Như thế, Thiền có đơn thuần chỉ là môt phương pháp trị liệu? Không, với tư cách là một trong những báu vật quý giá nhất châu Á trao tặng cho thế giới, Thiền rộng lớn và sâu sắc hơn rất nhiều.

Vậy Thiền là gì? Đạo là gì ? Vì sao cả ngàn năm qua, nó dường như vẫn vô cùng huyền hoặc, thậm chí với không ít người Á đông? Đó là câu hỏi không chỉ Alan Watts đặt ra. Nhưng ông đã dành phần lớn cuộc đời mình đi vào thế giới Đông phương minh triết kiếm tìm câu trả lời toàn vẹn nhất trong khả năng của mình. Đơm hoa kết trái trên hành trình đó là khoảng 20 cuốn sách có giá trị đã công bố. Đặc biệt phải kể đến Thiền Đạo (1956) - chứa đựng những tri thức uyên ảo sâu sắc về Thiền và Đạo. như một kinh điển phi thời gian hé mở cho bao thế hệ độc giả Đông Tây cascnh cửa của chân lý và giác ngộ, nơi cội nguồn phục lạc và những tiềm năng lớn lao vốn thuộc về con người mà ta chưa chạm đến.

***

Sách của Alan Watts hé mở cho bao thế hệ độc giả cánh cửa của chân lý và giác ngộ, nơi cội nguồn phúc lạc và những tiềm năng lớn lao vốn thuộc về con người mà ta chưa chạm đến.

Đối mặt trước cuộc khủng hoảng tinh thần của thế giới hiện đại, Thiền được ứng dụng trong một số lĩnh vực khoa học như y học, tâm lý học… để trị liệu hiệu quả nhiều loại bệnh, đặc biệt là các bệnh liên quan đến tinh thần. Như vậy, Thiền có đơn thuần chỉ là một phương pháp trị liệu?

Cuốn sách Thiền đạo của tiến sĩ thần học Alan Watts sẽ giúp bạn tìm câu trả lời thỏa đáng.

Dùng cả cuộc đời mình để đi vào thế giới Đông phương minh triết, Alan Watts thu được thành quả là khoảng 20 cuốn sách có giá trị đã được công bố. Đặc biệt phải kể đến Thiền Đạo (1956) - cuốn sách chứa đựng tri thức uyên thâm về Thiền và Đạo.

Với mục đích đưa Thiền và Đạo đến với đông đảo công chúng, Alan Watts cung cấp những tri thức theo từng mức độ chuyên sâu khác nhau. Nhờ đó mà Thiền Đạo vừa thích hợp với những độc giả nói chung vừa hữu ích cho các môn sinh chuyên sâu hơn.

Thiền Đạo được chia làm hai phần: Phần đầu nói về bối cảnh và lịch sử của Thiền, phần thứ hai đề cập chuyên sâu đến các nguyên lý và hành trì. Đây được coi là một tài liệu quý giá, có giá trị tham khảo, nghiên cứu cho những ai đam mê tìm hiểu về chủ đề này.

Về mặt lịch sử, Thiền có thể được coi như thành tựu của các truyền thống lâu đời trong văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa. Từ thế kỉ 12 trở đi, nó đã bắt rễ sâu và hết sức sáng tạo vào văn hóa Nhật Bản.

Có thể thấy, Thiền là thành quả của những nền văn hóa vĩ đại, là minh chứng cho thứ được gọi là độc nhất vô nhị, có tác dụng dẫn dắt khác thường về con đường giải thoát. Thiền là một trong những món quà quý giá nhất Châu Á trao tặng cho thế giới.

Có lẽ, cách tốt nhất để mô tả hương vị đặc biệt của Thiền là “sự trực tiếp”. Trong các trường phái Phật giáo khác, giác ngộ là một thứ gì đó nghe có vẻ xa vời, gần như siêu phàm, chỉ có thể đạt được sau nhiều kiếp sống với nỗ lực kiên nhẫn.

Nhưng trong Thiền, luôn có một cảm giác như giác ngộ là thứ gì đó hết sức tự nhiên, thứ gì đó rõ ràng đến ngạc nhiên, có thể xảy ra bất kỳ hình thức khoảnh khắc nào. Nếu nó hàm chứa sự khó khăn, thì chỉ vì nó quá đơn giản.

Ở cốt lõi của Thiền là lòng từ bi mãnh liệt nhưng hoàn toàn không ủy mị đối với chúng sinh đang đau khổ và rã rượi vì chính những nỗ lực tự cứu mình của họ.

Không biết nên gọi lại may thay hay rủi thay, Thiền trên hết là kinh nghiệm, mang tính vô ngôn, đơn giản là không thể tiếp cận được theo cách thuần túy sách vở và hàn lâm. Để khám phá Thiền là gì, và đặc biệt cái gì không phải là Thiền, chẳng có cách nào khác hơn là phải thực hành Thiền, trải nghiệm nó một cách cụ thể để khám phá ý nghĩa ẩn dưới ngôn từ.

Bằng một thứ ngôn ngữ mang đầy tính huyền hoặc nhưng không kém phần minh bạch, rõ ràng, Alan Watts với tư cách là một học giả phương Tây chứng minh sự am hiểu của bản thân về Thiền, và ông đã đem nó đi truyền bá khắp thế giới.

Joseph Campbell từng nhận xét: “Chưa từng có ai cống hiến cho chúng ta một dẫn dắt súc tích, mới mẻ về bộ lịch sử phát triển của tư tưởng Phật giáo ở Viễn Đông như Alan Watts".

Alan Watts là tiến sĩ thần học, sinh ra tại Anh. Ông được đánh giá là một trong những triết gia độc đáo của thế kỉ 20. Đồng thời, Alan Watts là diễn giảng nổi tiếng ở phương Tây về Thiền Phật giáo nói riêng, về triết học Ấn Độ và triết học Trung Hoa nói chung. Ông từng nghiên cứu và giảng dạy giảng dạy tại các trường Đại học Cambridge, Cornell và Hawaii. Ông mất năm 1973.

Alan Watts đã xuất bản hơn 20 cuốn sách về triết học và tâm lý học tôn giáo, trong đó có: The Way of Zen, Behold the Spririt, Does It Matter? The Joyous Cosmology, Nature, Man and Woman...

***

Người ta không thể diễn tả vẻ tráng lệ của hoàng hôn cho một người mù bẩm sinh. Cũng thế, bậc thánh không thể mô tả trí tuệ thân chứng cho phàm phu tục tử. Nếu Ðạo nằm trong giáo lý, thì bất cứ ai cũng thành thánh được, sau khi đọc Chí Tôn Ca hay Ba Tạng Kinh điển. Nhưng sự thực là, người ta có thể suốt đời nghiên cứu kinh điển mà không minh triết hơn chút nào. Tìm giác ngộ trong danh từ, tư tưởng thì chẳng khác nào đói mà chỉ ngồi đọc đi đọc lại tấm thực đơn. Tuy vậy ta thường dễ lẫn lộn sự minh triết của Thánh hiền với lý thuyết của họ, trong khi chân lý họ nói ra chỉ như bản đồ dẫn đường. Ðức Phật thận trọng không đề cập cái gì ngài đã chứng dưới cội Bồ đề, và khi các đệ tử hỏi về những bí ẩn vũ trụ, ngài đã "giữ sự im lặng của bậc Thánh" (như thánh mặc nhiên). Ngài thường dạy giáo lý của ngài chỉ đề cập "Con đường đưa đến giác ngộ". Không bao giờ ngài tuyên bố đấy là sự mặc khải, vén màn chân lý. Ðức Phật thường dạy các đệ tử:

"Khi ai tò mò hỏi Nó là gì,
Thì đừng xác quyết cũng đừng phủ nhận.
Vì bảo Có thì không thật đúng,
Nhưng nói Không cũng chẳng đúng nào.
Làm sao bảo được Nó là gì khi chưa biết mình là ai,
Dù có biết cũng không lời diễn đạt.
Vì nơi đây không dấu vết ngôn từ,
Nếu ai hỏi, hãy đáp bằng im lặng và ngón tay trỏ đến Con đường".

Mặc dù vậy, những tín đồ của đức Phật đã đi tìm giác ngộ ở ngón tay ấy thay vì đi theo dấu chỉ của nó. Họ đã tôn sùng và lệ thuộc vào kinh điển, làm như kinh điển tàng trử trí tuệ của Phật. Họ đã vô tình biến kinh điển không những thành đền thờ mà thành nấm mồ chôn vùi xác chết của trí tuệ Như Lai. Sự giác ngộ vốn dĩ là một cái gì rất sống động không thể gắn chặt vào một công thức danh ngôn. Bởi thế, mục đích của thiền Phật giáo là vượt khỏi ngục tù tư tưởng để cho tri kiến nguyên thủy của Phật có thể sống lại.

Thiền xem tri kiến ấy là điều quan trọng duy nhất, kinh điển chỉ là những phương tiện tạm thời để chỉ cho ta thấy tuệ giác có thể tìm thấy ở đâu. Thiền không bao giờ lầm lẫn giáo lý với tuệ giác, vì tự căn để, thiền chính là cái làm nên sự khác biệt giữa đức Phật và một người thường; thiền là sự giác ngộ khác hẳn với lý thuyết. Cũng như nhiều danh từ then chốt trong triết học Ðông phương, tiếng Zen không có tương đương trong Anh ngữ. Ðó là một danh từ Nhật phát xuất từ danh từ Trung Hoa là thiền hay thiền na, dịch âm từ tiếng Phạn Dhyana thường được dịch là Meditation. Ðấy là cách dịch sai lầm, vì đối với người Anh, danh từ Meditation chỉ có nghĩa là một sự suy tưởng sâu xa, trong khi ở Yoga, Dhyana là một trạng thái tâm thức cao cấp, trong đó con người tìm thấy sự hợp nhất với thực tại tối hậu của vũ trụ. Danh từ Thiền hay Zen cũng thế, ngoại trừ một điểm khác biệt là, tâm thức Trung Hoa ưa tìm thấy sự hợp nhất ấy trong hoạt động hàng này hơn là trong sự độc tọa tư duy. Không có tình trạng "thế giới bên kia" ở trong thiền, vì đây là một tâm thức mà người ta có thể có được trong bất cứ hoàn cảnh nào, khi giặt áo quần cũng như khi hành lễ. Trong khi người thực hành Yoga xa lánh thế gian để đạt đến thiền định, thì thiền Trung Hoa được tìm thấy trong một đoàn thể Tăng chúng ở chùa, nơi đó vị thầy và các môn đệ cùng làm mọi công tác như cuốc đất, làm bếp, bổ củi, vệ sinh. Như vậy muốn dịch danh từ Zen cho xác nghĩa thì phải dịch là Enlightenment, nhưng không những chỉ là Enlightenmentb hay giác ngộ, mà là con đường đưa đến giác ngộ. Có một truyền thống cho rằng nguồn gốc của thiền là cái giây phút đức Phật đạt đến trí tuệ vô thượng, thấu suốt được những bí ẩn của cuộc đời, xảy ra vào một đem tại Bodhi Gaya (Bồ Ðề tràng) vào thế kỷ thứ năm trước Tây lịch. Tuệ giác ấy được truyền trao qua một hệ thống gồm 18 vị tổ cho đến khi Bồ Ðề Ðạt Ma, vị tổ thứ 28 của Ấn Ðộ, đã đưa thiền đến Trung Hoa và thế kỷ thứ sáu sau Tây lịch. Kinh điển ghi rằng, tuệ giác ấy được trao truyền không qua trung gian kinh điển lý thuyết, đấy là một sự truyền thừa trực tiếp, một sự truyền thông bí mật dùng tâm ấn tâm chỉ riêng người đệ tử hiểu được, một người mà trình độ tâm linh đã tiến rất xa có thể nắm được diệu chỉ của thầy mình.

Mời các bạn đón đọc Thiền Đạo của tác giả Alan Watts.