Trong một thế giới ngày càng bị xô lệch bởi internet và các phương tiện nghe nhìn, sự thất thế của sách thể hiện rõ ngay trên… các trang báo! Trong số hàng trăm đầu báo ngày, tuần, tháng trên cả nước, không quá nhiều tờ dành đất và dành sự chăm chút cho sách như Sài Gòn Tiếp Thị - một trong hiếm hoi báo có mục điểm sách nghiêm túc và đầy đặn. Người chủ lực đằng sau nỗ lực đáng quý ấy là tác giả của tập tản văn ta đang cầm trên tay - Nguyễn Vĩnh Nguyên.
Gần như đều đặn hàng tuần, ta đều thấy Nguyễn Vĩnh Nguyên xông pha giữa thế giới sách: khi là vài mẩu tin sách, khi là bài phỏng vấn một tác giả hay dịch giả của một cuốn sách mới ra lò. Nhưng thường hơn cả là các bài điểm sách - rất nhiều trong số đó là bài viết về các cuốn sách nặng ký cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, như Vũ trụ của Carl Sagan, Đường sống của Lev Tolstoi hay Adolf Hitler - Chân dung một trùm phát xít của John Toland. Để viết từng ấy bài điểm sách, hẳn nhiên Nguyễn Vĩnh Nguyên đã đọc rất nhiều, trải rộng qua nhiều lĩnh vực văn học, văn hóa, lịch sử, địa lý .v.v.
Vì sao lại nói tới một vai trò khác của Nguyên trong lời giới thiệu tập tản văn này? Là vì, cầm tập sách này trên tay - nói chính xác là tiếp xúc với bản thảo của tập sách này trên máy tính - và đọc qua, ấn tượng đầu tiên của người viết bài này là, đây là văn của một người đọc sách rất nhiều - và là dạng đọc có gạch chân, bôi vàng, ghi chú, chứ không phải đọc qua loa. Trong hai mươi lăm bài tản văn trong tập, gần như bài nào Nguyên cũng trích dẫn một cuốn sách nào đó - cho dù đó là khi Nguyên khảo sát cái “tư duy mặt bằng” của người Việt, hay khi anh bình luận truyền thống cà phê quán cóc của dân Sài thành, hay làm một cuộc trò chuyện trên yên xe máy. Các trích dẫn ấy, với một liều lượng vừa phải: không quá nhiều đến nỗi làm bạn đọc hoa mắt, không quá ít để có thể bị rơi vào cảnh vô tình mượn ý người khác, đã mang đến cho tản văn của Nguyễn Vĩnh Nguyên một chút riêng. Chút riêng ấy, thiết nghĩ, là điều quan trọng, nhất là trong thời đại mà hầu như ai cũng có thể viết “tản văn” dưới dạng note trên Facebook hoặc entry trên blog.
Với cái nền đọc vững vàng đó, Nguyễn Vĩnh Nguyên, qua các bài viết trong tập này, đã làm một cuộc khảo sát đời sống văn hóa Việt hiện đại với nhiều phát hiện khá thú vị. Ở quán karaoke, Nguyên nhìn thấy người ta ghé sát vào tai nhau để nói chuyện vì âm lượng quá to cũng là một cách để hóa giải mâu thuẫn (bài “Karaoke, văn và cảnh”.) Lý giải cho “nhạc chế”, Nguyên lần ngược về những ngày đầu tân nhạc và trích dẫn bài “Bài ta theo điệu Tây” của Phạm Duy để chứng minh rằng “nhạc chế” ngày nay, ví dụ bài rất nổi tiếng “Hà Nội mùa này phố cũng như sông” nhại theo “Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa” là có truyền thống! Hay ở một bài khác, “Người Việt ngậm tăm”, Nguyên dẫn cả Xa lộ từ điển trên mạng lẫn Freud để truy tận gốc thói quen ngậm tăm của người Việt.
Chỗ này chỗ khác, người đọc có thể đồng ý hay không đồng ý với Nguyễn Vĩnh Nguyên trong cách anh lý giải, luận bàn văn hóa Việt của thời hiện đại. Tuy nhiên, một điều có thể chắc chắn rằng, những bài viết trong tập sách này sẽ mang lại cho người đọc những giây phút thú vị.
Sài Gòn, tháng 11.2012
Dịch giả LÂM VŨ THAO
***
Dân mình ưa ngậm tăm sau khi dùng bữa. Thói quen đó được đa số trong cộng đồng chấp nhận, “thực hành” thâm niên, nên đã có không ít người quy nó vào phong tục, văn hóa dù cho các nha sĩ luôn khuyến cáo không nên dùng tăm xỉa răng, như thế sẽ làm cho nướu, chân răng dễ tổn thương, gây các chứng nha, gần đây, cũng đã xảy ra một vài ca cấp cứu thủng đại tràng vì giỡn tăm bằng… miệng.
Nhưng người ta vẫn “nghịch” tăm sau khi ăn như một thói quen đầy ngoan cố. Hơn thế, như một thứ bệnh nghiện hết thuốc chữa.
Tôi đã thử truy tìm nguồn gốc, ngõ hầu lý giải cho “hành vi” này, nhưng sách vở đành bất lực. Tôi đem vấn đề trao đổi với một số chuyên gia, nhà nghiên cứu văn hóa và ghi nhận được vài kiến giải khả dĩ ở góc độ động cơ.
Có người quan tâm đến văn hóa dân gian, cho rằng, đời sống văn hóa làng xã trong quá khứ của người Việt quanh năm vần xoay trong lễ lạc cúng quảy, hết thảy những câu chuyện làng nước, tương tác nhân sinh được diễn ra quanh mâm rượu thịt đề huề, nên ngậm tăm là cung cách để giữ hình ảnh (thể diện) vệ sinh trong giao tiếp trên mâm cỗ. Ngậm tăm, về mặt biểu tượng cũng thể hiện sự no đủ, hay dấu chỉ cho người đối diện thấy mình mới dùng bữa xong. Có một chuyện hài được truyền miệng trên bàn nhậu rằng, xưa có một anh nông dân bần cùng thế nhưng ưa sĩ diện, lúc nào cũng ngậm tăm để tỏ ra ta đây no đủ, thế rồi một hôm người ta phát hiện anh ta chết vì đói quá nuốt luôn cây tăm.
Một chuyên gia khác lại cho rằng, chuyện xỉa răng là hậu quả của việc bỏ tục ăn trầu nhuộm răng của phụ nữ xưa. Người ta thay trầu bằng một que tăm, ngoài việc làm sạch miệng thì cũng đỡ thừa thãi hai tay và chống lại sự nhàm miệng.
Trong khi đó, một chuyên gia quan tâm đến nha khoa và nhân trắc học thì cho rằng, sự vụ này có liên quan đến đặc thù phát triển về khung hàm, sự bố trí răng của người Việt: do dùng nhiều chất xơ, có thói quen thích nhai nghiền nên hầu hết người Việt đến tuổi trưởng thành thì khoảng cách giữa các chân răng bị thưa ra, dễ gây chứng mảng bám, hôi răng nên xỉa răng bằng tăm tre (chất liệu “thiên nhiên”!) là một thói quen được xem là hợp vệ sinh đối với nhiều người.
Mỗi chuyên gia có một trường quan tâm, sẽ lấy “chuyên ngành” của mình ra để tha hồ giải mã. Mỗi một hướng giải mã đều có sự thú vị riêng.
Song tôi lại muốn “bẻ lái” câu chuyện sang một hướng khác, khi quan sát việc “thực hành” xỉa răng và ngậm tăm không chỉ diễn ra như một lý do giữ vệ sinh răng miệng sau ăn, mà còn là một căn bệnh nghiện. Hãy thử quan sát, trên thực tế, đâu chỉ người có răng thích ngậm tăm sau ăn, mà đến những cụ già không còn răng cỏ, trệu trạo nướu trơn cũng không bỏ được thói quen ngậm (nghịch) tăm trên miệng; đâu phải người răng thưa thích ngậm tăm, mà người răng khít rịt cũng thích dắt tăm lên miệng, vừa nói vừa chìa mũi tre nhọn bén vào mặt người đối diện; thậm chí, đâu phải người mới dùng bữa mới ngậm tăm, hãy xem một số cô cậu thanh lịch đặc biệt ở Hà Nội, rất tự tin ngậm cây tăm trên miệng lái xe tay ga dạo phố hoặc bước vào siêu thị dù bữa ăn chính đã xong trước đó vài giờ đồng hồ.
Với người này, cây tăm chỉ có thể là ngậm chơi, nhưng với người kia, cây tăm được lừa đi lừa lại, cắn gãy khúc, nhai giập, làm biến dạng trước khi chu môi máng chặt, vận khí từ trong khoang miệng, bắn “phụp” một phát vô hướng vào khoảng không.
Ngạc nhiên quá xá trước thói quen ngậm tăm của người Việt, cây bút Drew Taylor, sau nhiều năm sống ở Việt Nam, đã mô tả thật hài hước: “Xỉa răng quá nhiều! Sau bữa ăn, thể nào cũng thấy mọi người chuyền tay nhau ống tăm xỉa răng. Người cần cũng xỉa, mà người không cần cũng xỉa! Và từ không-cần-cũng-xỉa lại sinh ra cần-phải-xỉa (vì ghiền hoặc vì kẽ hở giữa răng đã rộng ra mất rồi!). Đành rằng xỉa răng vì nhu cầu vệ sinh, nhưng nhiều người sau khi xỉa đồ dơ trên răng xong lại bắt đầu nhai cây tăm – chính cái nhai ấy mới là hành động thừa gây nghiện. Người ta có thể ngồi xe máy mà cây tăm vẫn còn máng ở một bên mép; có thể vừa nói chuyện vừa gặm tăm…” (Phân tâm học Freud: “Miễn vui là được rồi!”, Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần, số 168.2010).
Anh Tây này tự hỏi không biết Freud sống lại ở Việt Nam thì ngành phân tâm học sẽ ra sao.
Thực ra, nhìn bệnh nghiện ngậm tăm dưới ánh sáng phân tâm học cũng có nhiều điều thú vị. Freud cho rằng, có bốn giai đoạn phát triển cơ bản về tâm lý tiền sinh dục với một đứa trẻ: giai đoạn miệng (oral stage), giai đoạn hậu môn (anal stage), giai đoạn cơ quan sinh dục (phallic stage) và sau đó bước sang thời kỳ phát triển ngấm ngầm (latency period). Đáng chú ý, ở giai đoạn miệng, đứa trẻ sơ sinh tìm thấy khoái cảm, cảm nhận tình yêu trong việc bú, mút. Trong giai đoạn này, theo Freud, nếu đứa trẻ dễ được mẹ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng qua việc bú mớm, thì nó sẽ có một nhân cách dễ bị lệ thuộc ở tuổi trưởng thành; ngược lại, nếu không được mẹ đáp ứng, thiếu sự chăm sóc, thì ở tuổi trưởng thành, nó sẽ chìm đắm trong bất an, lo lắng, thất vọng. Đây gọi là tâm lý “cắm chốt” (oralfixation) – những ẩn ức chuyển hóa thành hành động vô thức có nguồn gốc từ những kích động tâm lý ở giai đoạn lỗ miệng.
Như vậy, nếu lý giải theo cha đẻ ngành phân tâm học, sẽ thấy rằng, việc ngậm tăm xuất phát từ truyền thống văn hoá cưng chiều bảo bọc con cái, qia đó, những bà mẹ Việt đã vô tình “cài đặt” một thói quen thoả mãn khoái cảm vùng miệng rất lạ lùng từ sơ sinh cho đến khi những đứa trẻ trưởng thành mà có khi chính các bà và chúng đều không ý thức rõ ràng những hệ luỵ. Cũng có lý, khi mà nhiều gia đình hôm nay xem việc một đứa trẻ tự bưng lấy chén cơm ăn, tự dùng tăm xỉa răng sau bữa ăn là một hành vi không phải bắt chước đơn thuần, mà được coi là có khả năng tự chăm sóc bản thân thay vì đeo đẳng giảy nảy đòi vú mẹ.
Tuy nhiên, điều lý thú là ở chỗ, thói quen hay bệnh ghiền ngậm tăm của người Việt lại đẻ ra cho kho tàng ngôn ngữ mục từ giàu hình ảnh, biểu lộ một kiểu thái độ sống, phương cách hành xử: “ngậm tăm” cho qua chuyện. Ngậm tăm trong trường nghĩa ẩn dụ, được trang Xa lộ từ điển trên mạng định nghĩa là: biết đấy nhưng phải lặng im (To know it but to be forced to keep silence). Về ý này, người Trung Hoa có điển tích ngậm tăm (hàm mai) khá trùng khớp, như vầy: Ngày xưa có một viên tướng trong lúc cho quân đội hành quân đêm. Để giữ bí mật, sự thinh lặng tuyệt đối, ông bắt mỗi tên lính phải ngậm một que tăm (hàm: ngậm, mai: que tre được vót). Sáng hôm sau, ông tướng có máu độc tài này kiểm tra lại đoàn quân của mình, thấy tên lính nào không có tăm trên miệng thì lôi ra xử chém. Từ đó, trong dân gian, nói ngậm tăm có nghĩa là không dám hé miệng hay im lặng để giữ được toàn mạng.
Đến lúc cần phải dông dài viện dẫn đến lịch sử văn hóa người Việt, một lịch sử đối diện với quá nhiều bất trắc, tranh chấp triền miên, thù trong giặc ngoài. Đời sống luôn là sự đan cài đa tuyến, phức tạp. Việc con người, từ dân đen đến kẻ quyền lực hình thành cái phản xạ sinh tồn đó là nương tựa làng nước, tập thể, đồng thời luôn thường trực đề phòng, nghi kị lẫn nhau, thận trọng không hé miệng để cầu an. Nhưng điều đáng nói, từ những nguyên nhân khách quan, “ngậm tăm” đi vào vô thức cộng đồng, trở thành một tập tính, quy định phương thức hành xử, lựa chọn thái độ sống của từng thành viên xã hội.
Ở đây, có một khía cạnh khác, đáng nói, “ngậm tăm” không những là sự lặng im che giấu cái biết, sự thật để cầu an, mà đôi khi, việc “ngậm tăm” cố tình làm cho tiếng nói của mình bị méo mó đi, đánh lạc hướng, làm nhiễu sự thật.
Từ cái nguyên lý “oral fixation” có thể thấy rộng ra, sự thích dựa dẫm, quen được bảo hộ, sống phụ thuộc và thụ động, không can đảm tỏ bày thái độ sống, cộng với không khí nghi kị lẫn nhau đã làm cho hiện tượng tính cách “ngậm tăm” trong cộng đồng có xu hướng phổ biến. (Gần đây, trên Facebook, xuất hiện một hội nhóm bày chuyện chém gió, có tên là “hội những người thích ngậm tăm” với slogan “Đơn giản là thích ngậm tăm! Ngậm tăm mọi lúc mọi nơi!”). Những cá nhân nương náu vào tập thể, đám đông để “ai sao mình vậy”, dễ dàng xuê xoa nhắm mắt làm ngơ cho qua mọi thứ theo cái tinh thần “im miệng cho nó lành” đã đưa đến tình trạng “ngậm tăm” như một sự thỏa hiệp, cam chịu, chấp nhận sống chung với thực tại ngổn ngang vô phương cải thiện. Trong lớp học, trên giảng đường học sinh sinh viên không buồn trao đổi, đặt câu hỏi, phản biện để truy cầu sự thấu đáo tri thức; trò phải nương theo thầy để được “qua truông”. Trong cơ quan, lính thấy cái sai của sếp, sếp biết thói hư của lính nhưng lại “ngậm tăm” bao che, bắt tay nhau trong một “liên minh ma quỷ”, bảo toàn sức mạnh chống cự trước các bè phái khác không ngừng đấu đá. Ngoài xã hội, người ta dễ dàng lảng tránh trách nhiệm chứng nhân cho lẽ phải, sự thật để được yên thân với ý nghĩ, đó không phải là việc của mình. Trong gia đình, mọi thứ tuân thủ theo một thứ bậc truyền thống trên bảo dưới nghe, thiếu sự dân chủ cần thiết để các thành viên tôn trọng lẫn nhau với tư cách những cá nhân bình đẳng.
“Ngậm tăm” còn là sự dung túng, che đậy cho cái xấu, cái ác, cái phản tiến bộ và chống lại sự minh bạch cần thiết trong các mối quan hệ, tổ chức quản lý xã hội, làm cho đời sống được vận hành trong sự nhập nhèm, nhiều bất trắc, đầy lừa mị và sinh ra lắm nghi hoặc.
Im lặng là vàng. Nhưng im lặng theo lối “ngậm tăm” cũng là thứ vàng giả, gây nhiễu, đánh lận mọi giá trị. Khi mà việc “thực hành ngậm tăm” trở thành một chứng nghiện được “nâng quan điểm” thành một tính cách văn hóa của cộng đồng thì ngôn luận, tính cá nhân, sự thật tiến bộ là những thứ bị vùi lấp không thương xót.
“Ngậm tăm” được xem là cách thế đánh đổi và hy sinh cái biết, có khi cả lương tâm liêm khiết để chỉ được tồn tại trong một đám đông ràng buộc theo nguyên tắc thỏa hiệp đề huề. Ở đó, mỗi người tìm đến sự an toàn tình thế, để rồi có thể là nạn nhân của chính mình lúc nào chẳng hay.
***
Cuối cùng là một chút hài hước về mặt thẩm mỹ khi trở về nghĩa đen trong câu chuyện. Hãy nhìn cô gái trẻ xinh tươi máng trên miệng một chiếc tăm tre tẩm hóa chất hương quế đang tự tin cưỡi chiếc vespa hiện đại sang trọng lướt trên phố. Bạn say đắm chiêm ngưỡng và tự hỏi, điều gì đang xảy ra ở nơi vô thức của nàng?
Làn môi gợi cảm ấy đang che giấu điều gì khi mũi nhọn của que tăm vun vút lao về phía trước, ẩn tàng biết bao hiểm nguy trong một buổi trưa lãng mạn chết đi được!
Nếu được sống lại ở đây, hẳn ông Freud sẽ biến nàng thành bệnh nhân thí điểm của mình để giải mã chứng nghiện tăm ở một đất nước dưới ánh sáng phân tâm học.
Mời các bạn đón đọc Tivi, Xe Máy, Nhạc Chế, Chày Cối, Karaoke, Tăm Xỉa Răng và Những Thứ Khác của tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên.