Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Những Người Cùng Thời - Nhiều Tác Giả

Trên diện bài khá rộng thuộc các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hóa và văn chương - học thuật của Tạp chí Tia Sáng ngót 10 năm nay, có loạt bài viết về Chân dung, tôi rất ham đọc và mong đọc.

Cũng như trên không ít tờ báo khác, Chân dung là loại bài rất đáng được chú ý, bởi một nhân vật nào đó được chọn viết thường phải là nhân vật có vấn đề cho người đọc suy ngẫm, hoặc có ý nghĩa nêu gương. Họ thuộc số người có những thành tựu và phẩm chất ưu trội, không phải chỉ do tài năng thiên bẩm, mà còn là do ý chí, nghị lực và khổ công rèn luyện, rất xứng đáng được kính trọng và ngưỡng mộ. Đó là Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch, Hồ Đắc Di, Đặng Thai Mai, Nguyễn Khánh Toàn, Hoàng Xuân Hãn… Là Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu, Hoài Thanh, Nguyễn Khắc Viện, Lê Văn Thiêm, Hoàng Tụy, Nguyễn Tài Thu… Là Hải Triều, Phạm Huy Thông, Nguyễn Đổng Chi… Là Lê Khả Kế, Lê Bá Thảo, Nguyễn Từ Chi, Thái Bá Vân, Trương Chính, Vương Hồng Sển… Nhiều người trong danh sách trên đã được tôn vinh bởi các Huân chương, các Giải thưởng rất cao. Viết về họ là lẽ tự nhiên. Một số người sự tôn vinh có ít hơn, hoặc còn chưa có. Nhưng viết về họ cũng là cần thiết, bởi không phải không có ở họ những điều đáng suy ngẫm trên các đóng góp mà họ để lại cho đời. Và qua họ mà có một cầu nối đến với chúng ta, những con người bình thường, nhưng cũng có được như họ cái ý nguyện sống hết mình với nghề, và sự coi trọng các giá trị của tri thức và nhân cách.

Đọc các chân dung trong tập sách này tôi càng có dịp hình dung rõ hơn: Thế nào là vẻ đẹp của trí tuệ. Nhưng trí tuệ, để được gọi là trí tuệ sáng láng, nó cần phải gắn bó thiết cốt với tình cảm, với tâm hồn. Không một lao động miệt mài nào mà không ẩn chứa và lấp lánh ở bề sâu con tim cái tình con người, với nhân quần, với đất nước - một đất nước phải chịu đựng quá lâu những thử thách của chiến tranh và đói nghèo như nước chúng ta.

***

Phạm Văn Đồng (1906-2000)

Sinh ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức (Quảng Ngãi) , ông là người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1929, ông được cử vào Kỳ bộ Nam kỳ, rồi Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Tháng 7.1929, ông bị đế quốc Pháp kết án 10 năm tù đày ra Côn Đảo. Năm 1936, ra tù ông tiếp tục hoạt động bí mật. Sau Cách mạng tháng Tám, ông là trưởng phái đoàn VNDCCH tại Hội nghị Fontainebleau (Pháp). Năm 1954, ông là trưởng phái đoàn Chính phủ dự Hội nghị Genève về Đông Dương. Từ năm 1955, ông là Thủ tướng Chính phủ và từ năm 1981 đến 1987 làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Tại Đại hội ĐCSVN, ông được bầu làm Cố vấn BCH TW. Ông là tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng và có nhiều cống hiến quan trọng cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Ông để lại những tác phẩm có giá trị như Hồ Chủ tịch, hình ảnh dân tộc; Tổ quốc ta, nhân dân ta và người nghệ sĩ v.v…

Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng tôi còn nhớ mãi những ngày gian khổ xây dựng và phát triển giáo dục ở miền Nam Trung Bộ mấy năm đầu kháng chiến chống Pháp, khi anh Phạm Văn Đồng làm đại diện Trung ương lãnh đạo cuộc kháng chiến ở vùng này.

Hồi ấy, sau khi Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang,… bị địch chiếm, vùng tự do còn lại ở miền Nam Trung Bộ từ Quảng Nam đến Phú Yên thường xuyên bị máy bay và có khi cả tàu chiến địch bắn phá, ném bom. Thỉnh thoảng địch còn cho bộ binh từ biển đổ bộ vào càn quét nhiều ngày đêm. Trong tình hình chiến sự căng thẳng như thế, vừa phải tập trung sức bảo vệ vùng tự do, vừa phải lo đời sống cho dân và bộ đội, còn ai có tâm trí nghĩ đến học hành. Thế mà kỳ diệu thay, suốt mấy năm dưới sự lãnh đạo của anh, nhà trường ở đây vẫn không ngừng phát triển. Chẳng những không một lớp học nào nghỉ, mà nhiều lớp học mới, trường học mới được mở thêm. Đầu năm 1947, trường Trung học Lê Khiết ra đời ở Quảng Ngãi, thu hút học sinh từ Quảng Nam đến Phú Yên, dần dần phát triển vượt cả quy mô trường trung học thời thực dân ở Quy Nhơn. Tôi còn nhớ buổi lễ bế giảng năm học 1946-1947 ở Chợ Chùa, anh đến thăm trường, nói chuyện và dự buổi tối văn nghệ với học sinh và giáo viên, động viên thầy, trò dù khó khăn vẫn phải cố gắng dạy và học nghiêm chỉnh.

Rồi hàng năm, ít nhất vào dịp Quốc Khánh, bao giờ anh cũng gặp gỡ và ân cần thăm hỏi giáo viên. Có lúc tình hình chiến sự hết sức nghiêm trọng, tin tức ngoài Bắc đưa vào cho biết địch đang mở cuộc tấn công quy mô lên Việt Bắc hòng tiêu diệt đầu não kháng chiến, còn ngay ở liên khu nhà sự uy hiếp nặng nề của địch đối với vùng tự do của ta cũng làm nhiều người lo lắng. Vậy mà ngay giữa lúc ấy các hoạt động giáo dục vẫn không hề bị rối loạn. Nghe nói mỗi lần xuống kiểm tra, đôn đốc các địa phương chuẩn bị chiến đấu, anh vẫn không quên nhắc nhở và động viên các cấp chính quyền cố gắng duy trì giáo dục dù có khó khăn. Không chỉ thế, nhận thấy trình độ văn hoá thấp kém của cán bộ trở ngại cho công tác cách mạng và kháng chiến, anh còn quyết định mở thêm một trường trung học nữa (đặt tên là trung học bình dân) , và kiên quyết điều động cán bộ các cấp, các ngành ở khắp liên khu thu xếp công việc, luân phiên nhau tập trung về học gấp rút chương trình trung học trong vài năm. Ngày nay, một chủ trương như thế cũng đâu phải dễ làm, huống chi vào thời ấy, số thầy giáo có trình độ tú tài cả liên khu rất hiếm, lại thêm chiến sự liên miên, chỉ lo chống giặc, giữ đất và bảo vệ cuộc sống của dân cũng đã vô cùng khó nhọc. Trong hoàn cảnh ấy giá có chủ trương nghỉ học để đánh giặc thì nhiều người cũng cho là đương nhiên. Thế mà anh vẫn cho mở trường, hơn nữa còn đòi hỏi cán bộ tạm gác công việc chưa thật cấp bách để đi học, thì quả thật phải có tầm nhìn xa và tính quyết đoán cao, chẳng những tin chắc ở lợi ích của việc học, mà còn phải đủ can đảm để thực hiện một chủ trương nhìn bề ngoài có thể cho là chưa thật cần thiết. Sau này những ai từng sống ở Liên khu 5 thời kỳ ấy đều thấy rõ chính nhờ một phần quan trọng ở giáo dục được phát triển tốt ngay từ mấy năm đầu mà vùng tự do này đã giữ được sinh hoạt ổn định suốt cả cuộc kháng chiến. Hai trường trung học Lê Khiết và trung học bình dân, được thành lập do sáng kiến và dưới sự bảo trợ trực tiếp của anh, đã góp phần thiết thực nâng cao dân trí và đào tạo cán bộ, trở thành biểu tượng niềm tin vào sức mạnh giải phóng của giáo dục ở một miền đất từ xưa vốn nghèo khổ và thiếu học.

Mời các bạn đón đọc Những Người Cùng Thời của tác giả Nhiều Tác Giả.