Luận về biếu tặng (1925) là tác phẩm thuộc hàng kinh điển của Marcel Mauss. Trong cuốn sách nhỏ này, ông đã lập luận rằng những món quà không bao giờ “miễn phí”. Lịch sử của con người là lịch sử của những lần trao đổi quà tặng qua lại, và điều này vượt qua mọi ranh giới giữa vật chất và tinh thần. Món quà, ngoài giá trị của chính nó, còn bao hàm nhiều giá trị khác như về danh dự, địa vị, thậm chí còn giống như một sự thách thức đối với người nhận quà. Chính mối quan hệ giữa món quà và người tặng đã tạo ra nghĩa vụ “đáp trả” của người nhận.
***
Marcel Mauss (1872-1950) là nhà xã hội học người Pháp, người học trò, người cháu của Émile Durkheim. Ông thường được coi là “cha đẻ của ngành nhân học Pháp” với bài viết nổi tiếng đăng trên Année sociologique (Năm xã hội học): Luận về biếu tặng. Lĩnh vực hoạt động và nghiên cứu của ông đi giữa ranh giới của xã hội học và nhân học. Những phân tích của Marcel Mauss về ma thuật, sự hi sinh và biếu tặng có nhiều ảnh hưởng đối với nhiều nhà xã hội học, nhà nhân học sau này, đặc biệt là Claude Lévi-Strauss.
***
Marcel Mauss là nhà nhân học lớn của Pháp. Và Essai sur le don [Luận về biếu tặng - LVBT]* thường được nhiều người xem là kiệt tác của ông. Theo Claude Lévi-Strauss*, nhà nhân học lừng danh thế giới, ảnh hưởng của Mauss không phải chỉ giới hạn nơi hầu hết các nhà dân tộc chí, mà còn tác động đến các nhà ngữ học, tâm lý học, sử học về tôn giáo và các nhà Đông phương học của Pháp. Lévi-Strauss cũng nhận ra vài âm vang như thế nơi nhiều nhà nhân học Anh-Mỹ lớn như Radcliffe-Brown, Malinowski, Evans-Pritchard, Firth, Herkovits, Lloyd Warner, Redfield, Kluckhohn, Elkin, Held… Tại Pháp, một số nhà nhân học, xã hội học và kinh tế học (thuộc “cánh tả mới” ở Pháp) ngưỡng mộ Marcel Mauss đến mức, vào đầu những năm 1980, đã thành lập một tổ chức lấy tên là “Mouvement anti-utilitariste dans les sciences sociales” (Phong trào chống thuyết vị lợi trong các khoa học xã hội), viết tắt thành MAUSS (trùng với tên của Marcel Mauss) và xuất bản một tạp chí cùng tên (La Revue du MAUSS).
LVBT (1925) có lẽ là công trình nổi tiếng và khó hiểu vào bậc nhất của ngành nhân học xã hội. Nó hấp dẫn độc giả đến mức ngay cả Lévi-Strauss cũng đã phải thú nhận: “Ít người có thể đọc LVBT mà không cảm thấy cả một loạt các cảm xúc mà Malebranche đã miêu tả khi nhắc đến lần đầu tiên ông đọc Descartes: Tim đập mạnh, đầu nóng lên, và tinh thần bị xâm chiếm bởi một xác tín còn chưa rõ lắm, nhưng mãnh liệt, là mình đang chứng kiến một sự cố quyết định của tiến triển khoa học.”
Trong cuốn sách này, ngoài LVBT, còn có ở phần phụ lục bản dịch hai bài rất dài của Claude Lévi- Strauss (1950) và của Florence Weber (2007).
“Dẫn vào sự nghiệp nghiên cứu của Marcel Mauss” là một bài rất quan trọng và rất nổi tiếng: Không những nó giới thiệu được các cống hiến lý thuyết quyết định của Mauss đối với nhân học mà còn là một tuyên ngôn của chủ nghĩa cấu trúc mà Cl. Lévi-Strauss đang xây dựng vào thời đó. Phải nói là khi đọc hay nghe Lévi- Strauss, một người “thường thường bậc trung” như tôi cũng cảm thấy mình thông minh hẳn ra!
Viết sau bài trên đến gần 60 năm, bài “Hướng đến một dân tộc chí về các cung ứng không thông qua thị trường”* của Florence Weber, trái lại, tập trung vào việc giới thiệu LVBT (đặc biệt bà bác bỏ nhận định nổi tiếng của Lévi-Strauss cho rằng Mauss đã sai lầm khi dùng khái niệm hau - tức là “sức mạnh” của đồ vật theo người Maori - để lý giải sự bắt buộc phải đáp tặng). Bà cũng giới thiệu ảnh hưởng của LVBT trên các nghiên cứu dân tộc chí về biếu tặng, trao đổi, chuyển giao và giao dịch từ hơn nửa thế kỷ nay.
Chính vì đã có hai bài rất dài của Lévi-Strauss và Weber, tôi sẽ chỉ giới thiệu sơ qua tiểu sử của Marcel Mauss và trình bày các khó khăn mà tôi đã gặp trong khi dịch LVBT.
Tiểu sử Marcel Mauss
Sinh năm 1872 ở Épinal trong một gia đình giáo trưởng đạo Do Thái, Marcel Mauss học triết học ở Đại học Bordeaux dưới sự theo dõi của cậu ruột là Emile Durkheim (1858-1917) - được bổ làm Giáo sư khoa sư phạm và khoa học xã hội ở trường đại học này từ năm 1887 - nên ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của nhà xã hội học danh tiếng này. Marcel Mauss từng thú nhận: “Tôi đã sống cả phần đầu của đời tôi bên cạnh ba vĩ nhân […]: Durkheim, Jaurès* và Sylvain Lévi.*”*
Đậu thạc sĩ* triết học năm 1893, ông không nhận dạy ở Bordeaux mà lên Paris tìm hiểu môn nhân học thông qua các tác phẩm của J.G. Frazer (1854-1941)* và E.B. Tylor (1832-1917)*. Dưới sự hướng dẫn chủ yếu của Sylvain Lévi, ông học tiếng Phạn, ngữ học so sánh các ngôn ngữ Ấn-Âu và lịch sử tôn giáo nhằm thực hiện luận án tiến sĩ về cầu nguyện mà ông sẽ không bao giờ hoàn thành. Năm 1901, ông được bổ nhiệm làm giáo sư về lịch sử tôn giáo của các dân tộc “không văn minh” ở Trường Cao học Thực hành (École Pratique des Hautes Études, Paris): Trong bài giảng đầu tiên ông đã bác bỏ cụm từ “không văn minh” này.
Nhờ biết nhiều ngoại ngữ (và cổ ngữ), Mauss đã giới thiệu, trong các bài giảng cũng như những bài điểm sách của ông đăng trong L’Année sociologique [Năm Xã hội học] do Durkheim sáng lập năm 1898, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, đặc biệt ở Anh và Mỹ, và nhờ thế đã góp phần không nhỏ vào việc xác định vị trí của trường phái nhân học Pháp trong bối cảnh quốc tế.
Sau khi Durkheim qua đời năm 1917, ông nỗ lực làm sống lại tạp chí L’Année socioiogique, với sự giúp đỡ của C.Bouglé, G. Davy, P. Fauconnet và M. Halbwachs.
Năm 1931, ông được bầu làm giáo sư xã hội học ở Collège de France (Học viện Pháp), trường đại học có uy tín và độc đáo nhất của Pháp*.
Song song với việc nghiên cứu và giảng dạy, Mauss còn là một nhà hoạt động chính trị rất tích cực. Gia nhập (năm 1905) Đảng Xã hội Pháp SFIO mà ông không bao giờ rời bỏ, ông đã đấu tranh trong nhóm sinh viên ủng hộ Dreyfus*, giao du với J. Jaurès, tham gia thành lập báo L’Humanité [Nhân Đạo] và đảm nhận chức thư ký ban biên tập. Sau hội nghị ở Tours năm 1920*, ông tiếp tục tham gia Đảng Xã hội SFIO; ông viết nhiều bài về thời sự chính trị trong báo Le Populaire [Bình Dân] của đảng SFIO. Về hưu năm 1940, ông đã chịu nhiều thử thách trong Thế chiến II. Ông qua đời năm 1950.
Từ năm 1925, trong khuôn khổ của Viện Dân tộc học thuộc Đại học Paris mà ông đã cùng L. Lévy-Bruhl và P. Rivet thành lập và tổ chức, Mauss đã góp phần quan trọng trong việc biến nhân học thành một môn độc lập. Từ 1926 đến 1940, ông đã đào tạo ở đây thế hệ đầu tiên các nhà dân tộc học Pháp nghiên cứu trên thực địa: Georges Devereux, Germaine Dieterlen, Marcel Griaule, André-Georges Haudricourt, Michel Leiris, Alfred Métraux, Denise Paulme, André Schaffner, Jacques Soustelle,…
Đóng góp khoa học quan trọng của Mauss là đã làm nhẹ bớt tinh thần hệ thống, quan điểm phát sinh, khuynh hướng thần bí của Durkheim và một số môn đệ của ông. Khác với Durkheim, ông không xem cái “phức hợp” (le complexe) như là phái sinh từ cái đơn giản (le simple) được coi như là “nguồn gốc” theo quan điểm tiến hóa luận. Trái lại, ông xét các sự kiện trong mối quan hệ của chúng với toàn bộ tổ chức xã hội mà chúng thuộc vào. Theo ông, các hiện tượng xã hội cũng là các hiện tượng tinh thần. Lối tiếp cận mới này đã cho phép ông tạo ra được khái niệm “sự kiện xã hội toàn bộ” (fait social total) mà ông đã chủ yếu trình bày trong LVBT: Không tập trung vào các định chế (như luật pháp, nghi lễ, hôn nhân, huyền thoại…), thực ra chỉ là kết quả của sự chia cắt thực tại xã hội, mà trái lại tập trung vào tổng thể cụ thể (totalité concrète) mà chúng là thành phần; chính trong sự tương quan với tổng thể cụ thể đó mà chúng có ý nghĩa nhờ tạo nên hệ thống. Nhà dân tộc học có nhiệm vụ tái lập tổng thể xã hội và tìm ra các thời điểm thuận lợi nhất - như potlatch của người Mỹ-Ấn ở vùng duyên hải Tây-Bắc châu Mỹ mà F. Boas nghiên cứu hay kula ở Melanesia mà B.K Malinowski phân tích - trong đó một xã hội hiện ra rõ nhất nhờ sự hoạt động của toàn bộ các định chế và các biểu trưng của nó.
Theo cách nhìn của Mauss, các xã hội “nguyên thủy” không phải là “đơn giản” như Durkheim quan niệm, mà có sự “phức tạp” khác với sự phức tạp của xã hội phương Tây đương đại. Chính vì quan niệm như thế, nên Mauss chống lại việc L. Lévy-Bruhl đối lập triệt để “trí trạng nguyên thủy” (mentalité primitive) với trí trạng hiện đại. Cũng do quan niệm đó, nên Mauss đã luôn đặc biệt quan tâm đến các phạm trù miêu tả - đặc biệt trong cuốn Manuel d‘ethnographie [Giáo trình dân tộc chí] - và cho rằng chuyên khảo (monographie) là hình thức trình bày và phân tích thích hợp nhất cho việc giới thiệu các thực tại xã hội phức tạp.
Các công trình nghiên cứu của Mauss đã có ảnh hưởng không những đối với các nhà nghiên cứu trong các ngành khoa học xã hội mà cả đối với nhà văn và các nhà triết học (như Roger Caillois, Georges Bataille, Raymond Queneau…).
Trong tất cả các tác phẩm của ông, LVBT là công trình được trích dẫn nhiều nhất, cả ở ngoài Pháp, đặc biệt ở Anh và ở Mỹ. Tiểu luận này cũng đã để lại dấu ấn sâu sắc nơi nhiều nhà nhân học lớn như A.C. Radcliffe-Brown, B.K Malinowski, E.E. Evans- Pritchard, R. Firth, M.J. Herkovits, R. Redheld… Nói chung, ảnh hưởng của ông rất rõ nét trong các công trình nghiên cứu ở Đại học Oxford dưới sự hướng dẫn của Evans-Pritchard và R. Needham.
Được xem như là một trong những lý thuyết gia chính của nền nhân học Pháp, Mauss chưa từng viết một cuốn sách nào để trình bày một cách hệ thống những tư tưởng chủ đạo của ông. Và dù được xem là vị giáo sư đã thúc đẩy các môn đệ của mình tiến hành các điều tra điền dã, bản thân Mauss chưa từng nghiên cứu trên thực địa. Rất đa dạng, các bài báo của ông thường có tựa đề bắt đầu bằng các từ khiêm tốn như “sơ thảo” (esquisse), “tiểu luận” (essai), “trích đoạn” (fragment), “dẫn nhập” (introduction)… và thường được viết chung với người khác (như E. Durkheim, P. Fauconnet, H. Beuchat và nhất là H. Hubert). Điều đó không những chứng tỏ ông ý thức sâu sắc tính chất tạm thời và có thể bác bỏ được của các công trình khoa học, mà còn cho thấy ông coi trọng sự hợp tác với bạn đồng sự và lối làm việc tập thể.
Do các phát hiện lý thuyết không được trình bày một cách hệ thống, chúng thường bị giải thích theo nhiều cách mà đôi khi trái ngược nhau: Chẳng hạn đối với Georges Gurvitch, “sự kiện xã hội toàn bộ” bao gồm cả trạng huống (conjoncture) lẫn cấu trúc trong khi Claude Lévi-Strauss lại phát hiện nó trong cấu trúc và trong tính chất tương quan của tư tưởng biểu tượng. Nhiều chủ đề mà ông đề cập - như biếu tặng, ma thuật, kỹ thuật thân xác, hiến sinh, cầu nguyện, v.v. - đã hoặc có thể mở ra những hướng nghiên cứu đầy hứa hẹn.
Về bản dịch LVBT
Tôi đã đọc LVBT cách đây gần 50 năm trong khi học xã hội học và dân tộc học ở Đại học La Sorbonne (Paris). Chỉ đọc lướt qua thôi để ghi các ý và các câu mà tôi hiểu được và thấy hay, nhưng những trang ông viết về kula, potlatch… đã lưu lại trong trí tôi nhiều ấn tượng sâu sắc. Chính vì thế, tác phẩm đầu tiên mà tôi hứa dịch cho Nhà xuất bản Tri thức là LVBT. Nhưng khi bắt tay vào việc, tôi mới thấy là dịch nó rất khó, nếu muốn làm nghiêm túc, vì các lý do sau đây.
Tuy chỉ dài 134 trang khổ lớn thôi*, LVBT rất khó đọc trước hết vì có quá nhiều chú thích (có lẽ phải chiếm đến một phần ba số từ của cuốn sách). Vì ý thức được điều đó nên Mauss đã cẩn thận ghi rõ trong chú thích 2 ở trang 149 (ấn bản 1950) là “các chú thích và tất cả những gì không in bằng chữ to chỉ cần thiết cho các chuyên gia”. Phần lớn các tư liệu mà ông tham khảo thường viết bằng tiếng Anh, tiếng Đức, thậm chí đôi khi bằng tiếng Hà Lan, tiếng Latin và tiếng Phạn, khiến tôi đã mất khá nhiều thì giờ để dịch các tựa đề của chúng sang tiếng Việt (vì nghĩ rằng phần lớn độc giả không biết các ngôn ngữ này). Chẳng những thế ông thường ghi thiếu tên tác giả, tên nhà xuất bản, năm và nơi xuất bản. Cho đến nay, các bản in lại LVBT cũng như hai bản dịch tiếng Anh* đều giữ nguyên các sai sót đó. Chỉ có nhà xuất bản W.W.Norton & Co (bản dịch của WD. Halls) nói rõ là họ đã không tìm ra 170 trích dẫn bằng tiếng Anh mà Mauss trích dẫn. Tôi đã dành khá nhiều công sức để tìm lại được hầu hết các thông tin đó trên Internet (xem thư mục 3 ở cuối sách). Ở chương III về các luật cổ của Roma, Ấn Độ và Germany (chủ yếu là tiền thân của nước Đức ngày nay), ông dùng nhiều từ Latin mà không dịch sang tiếng Pháp. Như ta biết một từ thường có nhiều nghĩa. Do thiếu ngữ cảnh, lắm khi tôi đã không thể ghi nghĩa chính xác của chúng và không thể dịch một số cụm từ và câu Latin, nên một số đoạn trở thành khó hiểu thêm!
Tiếp theo, đúng như Lévi-Strauss nhận định (sđd, tr. IX), do tư tưởng của Mauss quá “súc tích” (dense), nên trở thành “khó hiểu” (opaque). Và nhiều trang lộn xộn của ông còn có cái gì của bản nháp trong đó nằm kề nhau một cách lạ lùng các ghi chú thiếu chính xác và, bị nén ép trong một lô các chú thích phê bình đè bẹp văn bản. Chẳng những thế lối tiếp cận vòng vo (tortueux) của ông thường làm độc giả lạc đường. Nói gọn lại là LVBT có nhiều câu và nhiều đoạn rất khó hiểu. Thế mà, nếu không hiểu đúng ý của tác giả, thì chắc chắn sẽ dịch sai. Do đó, tôi đã càng mất thêm thì giờ đọc đi đọc lại và nghiền ngẫm (thậm chí đôi khi phải tham khảo ý kiến của vài nhà dân tộc học Pháp đồng sự). Thú thật, kể cả khi sửa lại lần chót, tôi vẫn thấy còn vài chi tiết chưa giải quyết thỏa đáng, nhưng cũng đành chịu, vì không thể cầu toàn và kéo dài thêm vài năm nữa!
Khó khăn cuối cùng là Mauss dùng một số từ với nghĩa mới mà ông tạo ra cho chúng. Tôi cũng đã mất khá nhiều công sức để tìm hoặc tạo ra các từ tiếng Việt tương đương. Chẳng hạn từ “prestation” mà ông dùng không những để chỉ các “phục vụ”, “dịch vụ” (service) mà cả sự biếu tặng những đồ vật, phẩm tước, chức vụ, đặc quyền… Lúc đầu, tôi dịch thành “phục vụ” (service) (như bản dịch của W.D. Halls, còn Ian Cunnison thì giữ nguyên từ “prestation”, xem chú thích 41), nhưng sau thấy không ổn, nên đành dùng từ “cung ứng” dường như có nghĩa rộng hơn “phục vụ”. Về từ “contre-don”, tôi đã tạm tạo ra từ “đáp tặng” để dịch, theo mô hình của các từ Hán-Việt “đáp bái”, “đáp lễ”*… Tôi cũng đặt ra một số từ chưa hẳn đã thỏa đáng: Giản quy (réduire, réduction), tác định (déterminer, déterminisme), lý năng (raison như là khả năng, tức faculté…, dành từ lý tính cho rationalité), trí trạng (mentalité), minh nhiên (explicite và explicitement, trái với implicite và explicitemlent = mặc nhiên), hiền minh (sage), bố trí vật chất (dispositif matériel)…
Dù tôi đã rất nỗ lực, nhưng do hiểu biết giới hạn, bản dịch này chắc chắn còn nhiều thiếu sót, sai lầm. Rất mong độc giả ân cần chỉ giáo để tôi sửa chữa trong lần tái bản (nếu có!).
Để kết thúc, tôi xin cảm ơn ông Chu Hảo và Nhà xuất bản Tri thức đã tạo điều kiện cho tôi dịch LVBT và đã kiên nhẫn chờ tôi hoàn thành bản dịch kéo dài đến hơn hai năm; cô Hoàng Thanh Thủy đã đảm nhận việc biên tập bản thảo; anh Bùi Văn Nam Sơn đã dịch hoặc xem lại cách dịch các tên sách bằng tiếng Đức; anh Nguyễn Nghị đã góp ý kiến về một số từ Latin; và bà Nicole Halsberghe đã dịch giúp các tựa đề bằng tiếng Hà Lan. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn Nelly Krowolski đã chịu đựng sự bực bội, chán nản của tôi những khi gặp khó khăn trong việc dịch, đã góp ý kiến về một số cách diễn đạt quá đặc biệt của tiếng Pháp và nhất là đã tham gia làm các thư mục.
Paris, ngày 6/4/2011
Nguyễn Tùng
Mời các bạn đón đọc Luận Về Biếu Tặng của tác giả Marcel Mauss.