Con người lịch sử có thể dễ dàng hiểu một số tương đồng nhất định, thậm chí đôi khi biết tiếp cận cách tư duy tương đồng của con người cổ. Nhưng không thể tạo dựng nên bản thân các tương đồng, và cũng không có khả năng biến tư duy tương đồng thành của mình.
Cái họ biết và có khả năng vỏn vẹn chỉ là sự so sánh, và điều này họ chỉ biết sử dụng trong cái gọi là hình thức thi ca; nhưng ý nghĩa đáng tin cậy của sự so sánh đối với họ không có. Nhìn thấy tương đồng và tư duy kiểu tương đồng chỉ có thể bằng tri thức phổ quát, nhưng với tri thức tập thể thì không thể. Nếu không bằng nhận thức tỉnh táo để xác định các tương đồng thì cùng lắm chỉ đạt tới sự so sánh.
Con người lịch sử không có công cụ khi muốn nói về các tương đồng. Ngôn ngữ thời lịch sử vô hiệu quả đối với sự tương đồng. Trong ngôn ngữ thời lịch sử không có các biểu tượng, không có sức mạnh thần tượng, không đủ tính chất vũ trụ, không phổ quát cũng không siêu hình, tóm lại không mang tính chất thức tỉnh.
Từ thời trung cổ tới ngày nay sự tượng trưng cũng từ từ lùi vào hậu trường, và chỉ trong ẩn dụ đạt tới một mức độ ngôn ngữ cao nhất, tự do nhất và rõ ràng nhất. Nhưng ẩn dụ trong ngôn ngữ đại chúng biến thành sự trống rỗng. Nơi nào cần đến các dấu hiệu phổ quát hơn, và ở nơi nội dung siêu hình học sâu sắc hơn vẫn còn sống, ở đó con người lịch sử buộc phải dùng đến các từ ngữ cổ. Ngôn ngữ như một kho tàng chứa các tương đồng đã chấm dứt, và ngôn ngữ ngày càng nghèo nàn đi dù thức tỉnh hay không, và toàn bộ sức mạnh cùng sự sâu sắc của những tương đồng chỉ tồn tại ngoại lệ ở một vài nhà thơ lớn.
Con người lịch sử gần như không thể hiểu sự tương đồng của các con vật và các thần linh. Dòng tư tưởng tiếp cận một biểu tượng nào đó của bản chất sự sống trong các thực thể động vật - cũng đúng như vậy với các biểu tượng của giới thần linh con người không hiểu nổi. Họ không hiểu, ví dụ: các con vật nằm trong vòng Mặt Trời, như sư tử, dũng cảm, hiên ngang, là biểu tượng của linh hồn anh hùng.
Và các biểu tượng đẳng cấp cũng có thể là các con vật; biểu tượng của đẳng cấp brahman-tinh thần là con gấu ở người Kelta hay người da đỏ, và cũng đúng như vậy như ở Ấn Độ; Biểu tượng của đẳng cấp hiệp sĩ-cai trị là con lợn rừng; Biểu tượng của đẳng cấp kinh tế là một con vật mắn con và giàu có, con vật có ích, con lợn; Biểu tượng của đẳng cấp đi hầu hạ là con chó.
Nhưng các tương đồng thực vật của các thần linh cũng có: hoa-Mặt Trời, hoa-Mặt Trăng, các thần linh Ai Cập, Hi Lạp, Iran, Hindu, Trung Quốc, Mexico, Kelta, Peru đều có hoa và cây cỏ của họ. Ở Hi Lạp cây sồi là biểu tượng thần Zớt, cây nguyệt quế là biểu tượng của thần Apollon, cây dầu là biểu tượng của Pallas Athene, ở Iran hoa huệ là của Bahman, hoa nhài đỏ là của Ahura mazda, hoa hồng của Din.
***
Hamvas Béla sinh ngày 23.3.1897 tại Eperjes (nay thuộc Slovakia) trong một gia đình Thiên Chúa giáo. Năm 1898 vì nghề nghiệp của cha, gia đình ông chuyển đến Bratislava.
Năm 1915, sau khi tốt nghiệp trung học, Hamvas Béla tình nguyện gia nhập quân đội, sau một năm, bị thương, ông trở về nhà và bắt đầu đọc Kant, Rimbaud, Dostoiepxki, Schopenhauert, nhưng trước hết ông đọc Nietzsche.
Năm 1919, cha ông vì từ chối không tuyên thệ trung thành với nước Slovakia, nên cả gia đình ông bị đuổi ra khỏi Bratislava, chuyển đến Budapest.
Từ 1919-1923 ông học khoa Hungary-Đức tại Đại học Pazmány Péter, ông làm nhà báo 3 năm tại báo Tin tức Budapest vàSzozat.
Từ 1927-1948 ông làm thủ thư tại thư viện thành phố. Thời gian này ông viết các bài nghiên cứu, tiểu luận, các bài phê bình cho 25 thể loại tạp chí, trong đó có những tạp chí nổi tiếng như Athenaeum, Nyugat.
Hamvas Béla cùng Kerényi Károly thành lập nhóm Đảo, một liên minh tinh thần lấy từ truyền thống Hi Lạp cổ, nhóm này tập trung đông đảo các nhà văn, nhà triết học có tên tuổi của Hungary như: Szerb Antal, Németh László, Kövendi Dénes, Dobrovits Aladár, Molnár Antal và nhiều người khác.
Nhưng sau ấn phẩm gồm ba tập (1935-1936) nhóm Đảo tan rã, một hoạt động cộng đồng tinh thần như thế không thể thực hiện được. Hamvas Béla đã ghi lại những kinh nghiệm cay đắng trong cuốn Hyperion Hungary:
“Tôi ở đây giữa mọi người, trên trái đất này, mọi ý định của tôi đều không có kết quả, mọi từ ngữ của tôi vô ích, mọi kế hoạch của tôi tan vỡ, tôi đã thất bại, không ai nhận ra tôi, tôi trở nên thừa thãi, và không được chấp nhận.”
Trong những năm 1930-1940 ông viết gần ba trăm tiểu luận. Đối với ông viết là thực hành yoga.
Ông lấy người vợ thứ hai, một bạn đời tinh thần rất quan trọng, bà Kemény Katalin (1909-2004), người sau khi Hamvas Béla mất, đã cùng Dúl Antal, một đại diện của hậu thế rất ngưỡng mộ ông, cùng chăm lo việc xuất bản các tác phẩm của ông.
Trong thời kì Thế chiến thứ II, Hamvas Béla ba lần bị gọi vào quân ngũ, nhưng không ngăn cản được công việc dịch thuật của ông, như tác phẩm của các tác giả: Lão Tử, Böhme, Hêraclit, Khổng Tử, Henoch.
Năm 1943-1944 ông viết tập I tác phẩm Scientia Sacra, cuốn sách đánh dấu giai đoạn sáng tác thứ hai của nhà văn. Với cuốn sách này, ông gia nhập trường phái truyền thống với những nhân vật ưu tú nhất của thời đại: Julius Evola, René Gúenon và Leopold Ziegler.
Hamvas Béla cắt nghĩa: Truyền thống là sự trường tồn phi thời gian của tinh thần. Các tác phẩm của Hamvas - đầu tiên và duy nhất - lập ra một vũ trụ truyền thống, bằng sự tạo dựng nền tảng linh hồn nhận thức ra tinh thần.
Trong thời kì chiến tranh, tập tiểu luận triết học đầu tiên ra đời: Câu chuyện vô hình (1943).
Năm 1964 ông về hưu. Trong ba năm cuối đời Hamvas Béla hoàn thành nốt các tác phẩm khác trong đó có Scientia Sacra tập II nổi tiếng.
Ông viết chủ yếu là tiểu luận, một thể loại tự do, như một thí nghiệm thể loại. Mọi sáng tác của ông, kể cả tiểu thuyết đều ở dạng tiểu luận.
Ngày 7.10.1968 ông mất sau một cơn chảy máu não.
Cho đến tận những năm 70 của thế kỉ XX, tác phẩm của Hamvas Béla chủ yếu chỉ lưu truyền dưới dạng bản thảo đánh máy.
Bắt đầu từ những năm 80, dần dần tác phẩm của Hamvas Béla được ra mắt công chúng, nhưng vẫn bị kiểm duyệt, ví dụ tiểu thuyết Karneval (1985) bị cắt xén trước khi được in.
Năm 1990, Hamvas Béla được truy tặng giải thưởng Kossuth.
Năm 1996: Giải thưởng Di Sản Hungary.
Năm 2001: Giải thưởng Vì Nghệ Thuật Hungary.
Ngày nay Hamvas Béla được đánh giá là một trong những nhà văn, nhà triết học vĩ đại nhất của châu Âu thể kỉ XX, và trong nền văn hóa Hungary.
Mời các bạn đón đọc Minh Triết Thiêng Liêng Tập 2 của tác giả Hamvas Béla.