Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Mùa Cổ Điển - Quách Tấn

Chúng ta thích những gì chúng ta thiếu. Khi, vì liên tài, tôi tìm và gặp được ông QUÁCH-TẤN, lòng tôi vui sướng bao nhiêu ! Ai ngờ rằng cái thế-kỷ hai mươi nhộn-nhịp với những thi-sĩ dâm-loạn, điên-cuồng, gian-trá, độc-ác của nó, lại còn giữ nguyên-vẹn, đâu đây, cả một bầu không-khí Tống, Đường. Thật thế, QUÁCH-TẤN chúng ta có đủ phong-vận của một tao-ông mặc-khách thời buổi đó.

Và bắt buộc tôi phải nói nhiều đến cái tâm-hồn diễm-lệ của người. Bởi vì, chỉ trong chốc nữa, chính nó sẽ soi xuống, vào cái mặt giếng trung-thành của những trang thơ.

Tôi nghĩ ngay – lố-bịch thay là ý tưởng ! – đến một chiếc bình lọc nước : Chậm-chạp mà vững-vàng, âm-thầm mà mạnh-mẽ, nó sẽ hút chất nước ngọt-ngào chung-quanh vào trong tinh-khiết của lòng mình, gạn lọc, chọn lọc. QUÁCH-TẤN là như thế đó. Một sự thu nhận rất đỗi thận-trọng điều-hòa. Cử-chỉ ít, lặng, nhưng đầy ý nghĩa. Lời nói sưa, nhỏ, nhưng không thiếu sâu xa. Tóm lại có thể trong mấy chữ : hiểm tuy rằng điềm. Đó là cái tính của hồ, một mặt phẳng im, trên một lòng sâu tối. Đó là cái tính của núi, đơn-sơ ba nét, ba chiều cổ-điển, nhưng tâm-lý chi-ly từng ngọn cỏ, nhành gai. Yêu hồ yêu núi dường kia, không trách QUÁCH-TẤN không thích bể là phải lắm. Một lần người bảo : « Tôi chỉ yêu nó khi nó là một mặt lặng im thôi ». Tôi tưởng như người đã nói rõ quan-niệm của người trong câu nói đó. Bởi vì QUÁCH-TẤN không phải chỉ là người chôn hoa khóc hoa, tưởng nhớ một lòng sen, cảm thương một thân lá. Cũng không phải ông chỉ là người ưa siêu-thoát ra ngoài thế-sự, mong lấy cái hư-vô làm cái tâm-hồn, bởi lẽ tâm-hồn đã quá say đắm hư-vô, Không ! ông đủ cái phức tạp của chúng ta, lại thêm cái từng-trải của một con người tam thập. Nhưng ông đã trót mang cái quan niệm là đàn-áp, đàn-áp tất cả, để được bình tĩnh mà đón tiếp thi ca. Tưởng là khô-khan của Cao-đạo nhưng thật ra trong-suốt của Tượng-trưng. Cũng không đáng lấy làm lạ, khi người ta bước ra từ địa-hạt thơ Đường, nguồn tượng-trưng thuần-túy nhất. Tôi có cảm-giác, một khi về với thơ Tầu, là thế-giới chia ra hai phần : một, mặt đất, hai, cái tượng-trưng của nó bên trên : không-khí. Nhà thơ là người hiểu nhất về cái bên trên. Đáng lẽ than khóc cái cành hoa rơi, họ than khóc cái chỗ trống của cành hoa rơi. Đáng lẽ kêu gọi một ngọn gió, họ chỉ kêu gọi cái gì như hình thể của ngọn gió. Họ đi đến với chung-quanh, với sự-vật không bằng đường đất của con tim, bàn chân của cảm-tình, nhưng bằng không-gian, bằng cánh bay của trực-giác.

Riêng về QUÁCH-TẤN cái quan-niệm « tình nhiều nhưng không được lộ, khí mạnh nhưng mà phải dằn », như sao ta có thể đọc thấy rõ-ràng, trong mấy câu, gọi đi là tâm-sự :

Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ,

Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ.

Và sự liên-tưởng, xui chúng ta không sao không nghĩ đến một đôi nhà thi-sĩ Pháp đã đưa ra cái thuyết : « Người thơ khi đi tìm cái Đẹp phải dằn lên những dục vọng tầm thường, phải gạt tro ra cho điếu thuốc được dễ-dàng cháy theo với LỬA ». Phương Đông, phương Tây, ngửng lên cùng thấy trời kia xanh.

Một cái quan-niệm như thế ở một nhà thơ cũ, chẳng xui ta ngạc-nhiên mảy may nào hết. Ai đã có thể yêu sự tự ràng buộc của tâm-hồn, thì yêu luôn cái ràng-buộc tâm-hồn bởi ngoại cảnh. Kẻ hoàng-vương sợ gì lễ-nghi. Bởi vì lễ-nghi làm ra kẻ hoàng vương vậy. Con cá đẹp, múa giữa bốn mặt pha-lê, mà cũng làm được khoái-lạc cho kẻ tài-tử – chính vì nó múa giữa bốn mặt pha-lê. Cái múa tự-do đó, QUÁCH-TẤN nuôi mãi trong hi-vọng. Ông nguyện ngày kia sẽ trả lại hoàn-toàn cho thơ cũ cái hoàn-toàn của nó – âm-điệu, nhịp-nhàng, uyển-chuyển, đổi thay – mà « làng thơ Việt Nam đã bao lâu đánh mất ». Mười năm, hai mươi năm, hay cần đến, cả một đời, điều ấy là một điều chẳng đáng kể với ông.

Tập thơ thứ hai nầy vượt biết bao nhiêu tập thơ thứ nhất đã làm chúng ta không mãn-nguyện. Tập thứ hai nầy, tuy xinh-đẹp nhường ấy, yêu-kiều nhường ấy, ông cũng rụt-rè mà cho là thêm một bước tập-tành.

Và xin cảm ơn cái tập-tành ấy nhé.

Bởi vì, tập MÙA CỔ ĐIỂN bé bỏng nhưng quá đầy-đủ, trước hết, đã giải cho ta một mối lầm ác-nghiệt là phân-chia bờ cõi Thơ bằng hai chữ Mới Cũ chẳng có ý nghĩa gì. Và cũng không thể gọi là sau hết, cái việc nó đã đem lại, – ngoài những ý hay, tứ mới, ngoài những cảnh đẹp, tình sâu, – một cái quí-báu nhất và cốt-tủy nhất là Hồn Thơ, mà chưa một ai định nghĩa cho rành-mạch. Những người, không vì một lẽ rõ-ràng gì, đã thích những câu :

Cỏ biếc chẳng treo hồn Sở-trướng.

Trúc vàng thà điểm g i ọt Ngu-cung.

(Phạm-Thái)

Vàng rụng giếng ngô sa lá gió,

Bạc xuy dậu cúc nảy chồi sương.

(Tương-An)

Một tòa sen tỏa hơi hương ngự,

Năm thức mây phong nếp áo chầu.

(Thanh-Quan)

Xuân đào lý gió đêm hoa nở,

Thu khi mưa rụng lá ngô-đồng.

(Tản-Đà)

Họ sẽ hiểu tôi muốn nói gì.

Ấy là tôi muốn nói đến thơ thuần-túy. Phải rồi QUÁCH-TẤN, tuy chưa đến được – vì ai mà đến được, vả chăng ông cũng chẳng mong đến được bây giờ – nhưng ông đã đi gần cái thể đọng của Thơ thuần túy mà ở cổ-nhân, ta chỉ thường thấy trong các bản Cung-oán ngâm-khúc, Tần-cung-nữ oán, Bái-Công văn…

Hỡi những bạn trẻ ! Chúng ta vẫn thường say mê cái nguồn thơ phương Đông, sao hôm nay chúng ta không đón rước cái chân tài đương độ nở nầy ; – huống gì đó lại là kẻ đại biểu cuối-cùng cho một trường thơ hôm nay tẻ-lạnh.

Tôi phải nói thế nào cho đủ lòng tin của các bạn đây ? Một bài tựa không phải là một chỗ ca-tụng. Nhưng khi với những bài thơ đầu, TẢN-ĐÀ đã không ngại-ngần mà đặt QUÁCH-TẤN bên Yên-Đổ, Hồ-Xuân-Hương, bà huyện Thanh-Quan, Tôn-thọ-Tường…, 1 thì với tập thơ thứ hai nầy, sao tôi không đủ can-đảm để nói rằng : qua các cổ-nhân, đến bây giờ, bạn trẻ chúng ta mới tìm thấy những bài bát cú mà chúng ta yêu được hoàn-toàn, một nhà thơ cổ-điển hiến dâng một mùa mà chúng ta đón tiếp với một lòng vui sướng không do-dự.

Cái đẹp, người ta bảo nên để nó đi đến một mình. Nhưng hôm nay sự nó đến không có tính-cách dĩ-nhiên, cái một mình lại thành ra bó buộc, bởi vậy nên xin.

Có tựa.

Nhatrang, Xuân năm rắn,

Chế-Lan-Viên

Mời các bạn đón đọc Mùa Cổ Điển của tác giả Quách Tấn.