Thể Loại Tác Giả Tìm kiếm Đăng nhập Đăng kí

Vui lòng để tải file. Ấn để đăng nhập

Chùm Đoản văn của Aleksandr Solzhenitsyn - Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn

Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn là nhà văn, nhà viết kịch của Liên Bang Xô Viết và Liên Bang Nga đoạt giải Nobel Văn học năm 1970.

Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn sinh ở Kislovodsk, vùng bắc Kavkaz. Bố mất khi Solzhenitsyn chưa sinh, mẹ đi làm nghề đánh máy để nuôi con. Năm 1925 hai mẹ con chuyển về thành phố Rostov-trên-sông-Đông (Rostov-na-Donu). Từ năm 1926 đến 1936 học ở trường phổ thông thường bị bạn bè chế diễu vì đeo thập tự và không muốn vào Đội thiếu niên Lenin. Sau đó, nghe theo lời khuyên của các thầy cô giáo, Solzhenitsyn đã tiếp nhận lý tưởng cách mạng, năm 1936 vào Đoàn thanh niên cộng sản Komsomol. Từ nhỏ Solzhenitsyn đã muốn trở thành nhà văn nhưng có năng khiếu toán học nên năm 1936 ông theo học khoa Toán trường Đại học Rostov để sau này dễ kiếm việc làm. Những năm học ở Đại học Rostov, Solzhenitsyn luôn là sinh viên xuất sắc, được nhận học bổng Stalin.

Năm 1970, Alekxandr Solzhenisyn được tặng giải Nobel nhưng ông không đến Thụy Điển nhận lễ trao giải vì sợ sau đó không trở về nước được; hai năm sau ông mới đến nhận giải và đọc Diễn từ. Năm 1974, sau khi công bố bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá (Жить не по лжи) và cho in tác phẩm Quần đảo GULag (Архипелаг ГУЛаг) ở Paris, Solzenitsyn bị bắt, bị nhà nước Liên Xô tước quyền công dân và bị trục xuất sang Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó ông định cư ở Hoa Kỳ.

Bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá được viết ngay trước khi ông bị trục xuất khỏi nước Liên Xô đã thể hiện tâm tư của ông, có đoạn viết Chúng ta đã bị phi nhân tính một cách tuyệt vọng tới mức chỉ vì một khẩu phần ăn khiêm tốn hàng ngày cũng sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế - cốt sao sự tồn tại mong manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một bầu nhiệt huyết. Chúng ta thậm chí còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân, không sợ thế chiến thứ ba (còn có thể trú ẩn trong những kẽ hầm mà!), thế nhưng lại sợ những hành động can đảm của công dân! Bài viết này được các báo chí trên thế giới đăng lại hoặc nhắc đến, gồm The Washington Post, NewYork Times

***

Chưa từng có ai viết, mà người ta cũng không nói nhiều về nó. Người ta chặn những con đường rừng dẫn đến hồ, như thể chúng dẫn đến một tòa lâu đài thần tiên. Trên tất cả mọi con đường đều có dựng bảng cấm - một cái vạch đơn giản, lặng câm. Giả sử có ai đó, hoặc một con thú hoang nào đó, nếu đang đi trên đường, trông thấy cái vạch này thì hãy liệu thần hồn mà cao chạy xa bay! Đây là quy định của chính quyền sở tại. Cái vạch có nghĩa: không được chạy qua và không được bay qua, không được đi qua và không được bò qua.
Gần con đường, trong khu rừng thông, có những người lính canh đang giấu mình mai phục với những người Thổ Nhĩ Kỳ và những khẩu súng.
Bạn đi loanh quanh trong cánh rừng lặng im, đi loanh quanh và tìm kiếm, cốt làm sao có thể tới được hồ, nhưng bạn không tìm thấy ai để mà hỏi: thiên hạ đã bị đuổi sạch, chả có ai ở trong cánh rừng này. Cuối cùng, bạn chỉ còn mỗi cách là nương theo tiếng chuông lục lạc mà người ta buộc trên cổ chú bò nghễnh ngãng, vượt qua những lối mòn dành cho súc vật vào lúc giữa ban trưa trong một ngày mưa. Và nó chỉ mới vừa thoáng hiện ra trước mắt bạn, rất mênh mông qua những thân cây rừng, thì chưa kịp chạy tới bên nó, bạn đã biết rằng, bạn sẽ yêu nơi này cho đến chết.
Hồ Segzen tròn vành vạnh như được kẻ bằng com-pa. Nếu bạn đứng ở bờ bên này mà kêu lên (nhưng để người ta không phát hiện ra bạn, chớ nên kêu), thì chỉ có tiếng vọng của nó mới có thể tới được bờ bên kia. Quả là xa quá. Rừng ven bờ bao phủ quanh hồ. Rừng bằng phẳng, cây tiếp cây. Trên mặt hồ, trước mắt bạn mở ra toàn bộ khung cảnh bị bao vây bởi rừng ven bờ: nơi này có dải cát vàng, nơi kia có vạt cây kamưk (*) màu xám đang trổ bông, còn đó là đám cỏ non xanh tươi phơi mình nằm lả lơi. Mặt nước im ắng, phẳng lặng không gợn sóng. Ở đâu đó ven bờ có vài vạt bèo tấm, còn thì nước hồ trong văn vắt - trong vắt cho tới đáy.
Hồ biệt lập. Rừng biệt lập. Hồ nhìn lên bầu trời, và bầu trời soi bóng nước. Còn có điều gì hơn trên mặt đất này - không rõ nữa, ngoài khu rừng này - không rõ nữa. Mà giả sử có một cái gì - thì nơi đây không cần đến nó, thật vậy đấy.
Giá như có thể dọn đến và ở lại đây mãi mãi… Khi ấy, tâm hồn ta sẽ lan ra giữa bầu trời và mặt nước, giống như làn không khí đang run rẩy kia, sẽ lan ra cả những dòng suy tư trong sạch và thẳm sâu.
Nhưng đó là điều không thể. Lãnh chúa bạo tàn, một kẻ mắt xếch hung dữ, đã chiếm đoạt hồ: đây là nhà nghỉ của ông ta, hồ bơi của ông ta. Trên một chiếc thuyền, lũ trẻ nhỏ nhà ông ta đang câu cá, săn bắn vịt trời. Thoạt tiên, một sợi khói lam xuất hiện trên mặt hồ. Sau đó, tiếng súng vang lên.
Ở đó, sau những cánh rừng, địa hạt trải dài, uốn lượn quanh co. Còn ở đây, để không ai có thể làm phiền họ - những con đường rừng bị đóng cửa. Ở đây, cá và thú hoang được chăm lo để dành cho riêng họ. Vẫn còn đây một vài dấu vết: có ai đó đã đốt lửa, người ta ập tới. Việc đầu tiên là dập tắt lửa, sau đó, tống cổ họ đi. Hồ cô tịch. Hồ thân thương. Ôi quê hương…

--------------
(*) kamưk: một loại cỏ nước, cỏ đầm lầy

Mời các bạn đón đọc Chùm Đoản văn của Aleksandr Solzhenitsyn của tác giả Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn.